Thứ Năm, 12 tháng 6, 2014

04 câu Thảo Luận XHCN-KH

Trong môn này nếu thảo luận chúng ta chỉ cần làm giàn ý là đạt yên cầu, không cần phải trình bày kỷ ở đây mình phân tích cũng tương đối đầy đủ
 Câu : 1                   Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là gì? Do đâu giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử? Giai cấp công nhân phải làm gì để hoàn thành sứ mệnh? Hãy làm rõ cơ sở khẳng định sứ mệnh của giai cấp công nhân trong thời đại hiện nay? Liên hệ giai cấp công nhân Việt Nam?

Giải Quyết vấn đề:
Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm rõ khái niệm giai cấp công nhân. Chính C.Mác và Ph.ăngghen đã chỉ rõ: “

1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin

Giai cấp Công nhân là G/C của những người lao động được hình thành và phát triển gắn liền với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại. Là g/c đại diện cho PTSX tiên tiếng, dựa trên LLSX phát triển ngày càng cao, mang tính xã hội hóa, quốc tế hóa. Trong thời đại ngáy nay g/c công nhân là g/c duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo và tổ chức cuộc cách mạng XHCN để xây dựng thành công CNXH và đi đến CNCS. Hiện nay ở trong các nước TBCN g/c công nhân vẫn là người lao động làm thuê nên bị nhà TB bóc lột, còn ở trong các nước XHCN g/c công nhân là người làm chủ, họ có vai trò lãnh đạo XH.
b. Đặt điểm của G/c CN:
* Đặt điểm G/c Cn trong xã hội tư bản chủ nghĩa:
-Giai cấp công nhân vừa là LLSX vừa là chủ thể trong xã hội.
- G/c-Cn không có TLSX phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống vì thế bị nhà TB bóc lột.
- g/c-CN có lợi ích đối lập với lợi ích của G/c tư bản.
- G/c-Cn có bản chất dân tộc và bản chất quốc tế.
- G/c-CN có hệ tư tưởng CN Mác Lê Nin, hệ tư tưởng hiện đại nhất.
- G/c-Cn là giai cấp đại diện cho PTSX tiên tiến, LLSX tiến bộ mang tính XH hóa, quốc tế hóa.
* Đặc điểm Cn trong hiện đại"
* Đặt điểm G/c-Cn trong XHCN:
- Là G/c tiên tiến nhất trong thời kỳ quá độ đi lê XHCN
- G/c-CN là lực lượng gắn bó với sự phát triển của LLSX ngày càng có những đóng góp quan trọng vào tổng SP trong xã hôi (GDP).
- G/c-CN là g/c lãnh đạo CM, là giai cấp đại diện cho lợi ích dân tộc, lợi ích G/c, lợi ích XH.
- G/c-Cn luôn giữ vai trò nòng cốt trong liên minh công, nông trí thức và khối đại đoàn kết do Đảng cộng sản lãnh đạo.
- Có hệ tư tưởng CN Mác Lê Nin.
2.Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân :

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Theo Mác - Lê Nin Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của g/c-cn là tổ chức lãnh đạo xã hội thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng Sản để đấu tranh giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội khỏi ách áp bức, bất công, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Luận thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được C. Mác và Ph. Ăng ghen trình bày sâu sắc trongTuyên ngôn củaĐảngCộngsản. Trong tác phẩm này các ông đã chỉ rõ các điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Nói một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Ph. Ăngghen viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”

a.Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Cần phân tích làm rõ 03 nội dung thể hiện sau:

* Kinh tế
*Văn hóa
*chính trị

- Do địa vị kinh tế - xã hội khách quan, giai cấp công nhân là giai cấp gắn với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản. Và, với tính cách như vậy, nó là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi giành chính quyền, giai cấp công nhân, đại biểu cho sự tiến bộ của lịch sử, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, được rèn luyện trong nền sản xuất công nghiệp tiến bộ, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ là giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, và xét về bản chất họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, họ chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích và được cả thế giới về mình.
- Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để nhất mà còn tạo cho họ khả năng làm việc đó. Đó là khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp, khả năng đạt tới sự giác ngộ về địa vị lịch sử của khả năng hành động chính trị để từng bước đạt mục tiêu cách mạng. Đó là khả năng đoàn kết các giai cấp khác trong cuộc đấu tranh chống tư bản. Đó là khả năng đi đầu trong cuộc đấu tranh của toàn thể dân lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế theo chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đúng đắn. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình không phải diễn ra một cách bằng phẳng, thuận buồm xuôi gió.

b.Những nhân tố chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan, song, để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập ra đảng cộng sản trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

Bản thân giai cấp công nhân

Ngay từ khi mới hình thành trong xã hội tư bản chủ nghĩa, bản thân giai cấp công nhân đã không ngừng hoạt động và trưởng thành từng bước về số lượng và chất lượng.
Về số lượng chẳng những ngày càng tăng lên rất rõ rệt ở tất cả các nước, kể cả trong "kinh tế tri thức" hiện nay, mà còn đa dạng hơn về cơ cấu các loại công nhân với nhiều ngành nghề ngày càng phong phú, phát triển, tinh vi hơn. Theo Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) thì: từ năm 1900, toàn thế giới có 80 triệu công nhân; đến năm 1990, thế giới đã có hơn 600 triệu công nhân và đến 1998 đã có 800 triệu công nhân...
Về chất lượng,
bản thân giai cấp công nhân luôn có sự nâng cao về học vấn, về khoa học công nghệ và tay nghề; từ hoạt động kinh tế, đấu tranh kinh tế trước mắt, đã từng bước hoạt động chính trị, đấu tranh chính trị, thông qua các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, từng bước có ý thức giai cấp, giác ngộ giai cấp và cao nhất là dẫn đến hình thành đảng tiên phong là đảng cộng sản. Khi đó, theo chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp công nhân đã từ chỗ là "giai cấp tự nó" (tức là chưa có ý thức giác ngộ giai cấp) đến chỗ là "giai cấp vì nó" (tức giai cấp tự giác).
Vì thế, giai cấp công nhân trở thành cơ sở chính trị căn bản nhất của đảng cộng sản.
3.Giai cấp công nhân phải làm gì để hoàn thành sứ mệnh? sứ mệnh của giai cấp công nhân trong thời đại hiện nay?
- Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân tuy đang đứng trước những thử thách hết sức nặng nề, nhưng xem xét toàn cảnh của sự phát triển xã hội, giai cấp công nhân, lực lượng sản xuất tiến bộ vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách quan cho thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình dù có trải qua những bước thăng trầm, quanh co, nhưng nó vẫn tiếp tục diễn ra theo quy luật khách quan của lịch sử.
- Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình G/c-CN cần phải:

a.Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển đảng của giai cấp công nhân

Chỉ khi nào giai cấp công nhân đạt tới trình độ tự giác bằng việc tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin thì phong trào cách mạng của nó mới thật sự là một phong trào chính trị. Trìnhđộ lý luận đó cho phép giai cấp công nhân nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong xã hội, nguồn gốc tạo nên sức mạnh và biết tạo nên sức mạnh đó bằng sự đoàn kết, nhận rõ mục tiêu, con đường và những biện pháp giải phóng giai cấp mình, giải phóng cả xã hội và giải phóng nhân loại.
Phải có chủ nghĩa Mác soi sáng, giai cấp công nhân mới đạt tới trình độ nhận thức lý luận về vai trò lịch sử của mình. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân dẫn đến sự hình thành chính đảng của giai cấp công nhân. V.I. Lênin chỉ ra rằng, đảng là sự kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa xã hội khoa học. Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện không gian và thời gian. ở nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa, chủ nghĩa Mác thường kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước thành lập ra đảng cộng sản.
Từ thực tiễn lịch sử ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930.
Chỉ có đảng cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác trong mỗihành động với tư cách một giai cấp tự giác và thực sự cách mạng. C. Mác đã nhấn mạnh rằng, trong cuộc đấu tranh của mình chống lại quyền lực liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào giai cấp vô sản tự mình tổ chức được thành một chính đảng độc lập của mình chống lạiquyền lực liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào giai cấp vô sản tự mình tổ chức được thành một đảng độc lập với tất cả mọi chính đảng cũ do giai cấp hữu sản lập ra thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp được.

b.Mối quan hệ giữa đảng cộng sản với giai cấp công nhân

Đảng chính trị là tổ chức cao nhất, đại biểu tập trung cho trí tuệ và lợi ích của toàn thể giai cấp. Đối với giai cấp công nhân đó là đảng cộng sản, chẳng những đại biểu cho trí tuệ và lợi ích của giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động và dân tộc.
Chonên phải có một đảng chính trị vững vàng, kiên định và sáng suốt, có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn thể hiện lợi ích của toàn giai cấp và toàn bộ phong trào để giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội - giai cấp của đảng, là nguồn bổ sung lực lượng của đảng, đảng là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu của giai cấp, là biểu hiện tập trung lợi ích, nguyện vọng, phẩm chất, trí tuệ của giai cấp công nhân và của dân tộc. Giữa đảng với giai cấp công nhân có mối liên hệ hữu cơ, không thể tách rời. Những đảng viên của đảng cộng sản có thể không phải là công nhân nhưng phải là người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập trường của giai cấp này.
Với một đảng cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của đảng chính là sự lãnh đạo của giai cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất, nhưng đảng có trình độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo cả giai cấp và dân tộc; vì thế không thể lẫn lộn Đảng với giai cấp. Đảng đem lại giác ngộ cho toàn bộ giai cấp, sức mạnh đoàn kết, nghị lực cách mạng, trí tuệ và hành động cách mạng của toàn bộ giai cấp, trên cơ sở đó lôi cuốn tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác và cả dân tộc đứng lên hành động theo đường lối của đảng nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh của mình, giai cấp công nhân cũng như mỗi người công nhân cần thường xuyên phấn đấu vươn lên, trưởng thành về các mặt: tư tưởng, chính trị, lập trường giai cấp, văn hoá, khoa học kỹ thuật, tay nghề... Các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, thường xuyên phát triển vững mạnh... cùng với quá trình phát triển không ngừng của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, v.v..
4.Liên hệ giai cấp công nhân Việt Nam?

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam

Sự ra đời, đặc điểm và điều kiện giai cấp công nhân vươn lên thành giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam

Với chính sách khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thựcdân Pháp ở Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam đã ra đời từ đầu thế kỷ này, trước cả sự ra đời của giai cấp tư sản Việt Nam và là giai cấp trực tiếp đối kháng với tư bản thực dân Pháp. Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, dưới sự thống trị của đế quốc Pháp, một thứ chủ nghĩa tư bản thực lợi không quan tâm mấy đến phát triển công nghiệp ở nước thuộc địa, nên giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm.
Mặc dù số lượng ít, trình độ nghề nghiệp thấp, còn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông dân, song giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng ở nước ta do những điều kiện sau đây:
- Giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm. Ở giai cấp công nhân, nỗi nhục mất nước cộng với nỗi khổ vì ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp làm một, khiến động cơ cách mạng, nghị lực cách mạng và tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân được nhân lên gấp bội.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và từng bước trưởng thành trong không khí sôi sục của một loạt phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp liên tục nổ ra từ khi chủ nghĩa đế quốc Pháp đặt chân lên đất nước ta: phong trào Cần Vương và cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, của Hoàng Hoa Thám, các cuộc vận động yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, v.v. đã có tác dụng to lớn đối với việc cổ vũ tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất và quyết tâm đập tan xiềng xích nô lệ của toàn thể nhân dân ta. Nhưng tất cả các phong trào ấy đều thất bại và sự nghiệp giải phóng dân tộc đều lâm vào tình trạng bế tắc về đường lối.
- Vào lúc đó, phong trào cộng sản và công nhân thế giới phát triển, cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga bùng nổ, thắng lợi và ảnh hưởng đến phong trào dân tộc dân chủ ở nước khác, nhất là ở Trung Quốc, trong đó có phong trào cách mạng ở nước ta. Chính vào lúc đó, nhà yêu nước Nguyễn ái Quốc trên hành trình tìm đường cứu nước đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin bí quyết thần kỳ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ta. Từ đó, Người đã đề ra con đường duy nhất đúng đắn cho cách mạng Việt Nam - con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và chuyển cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tấm gương cách mạng Nga và phong trào cách mạng ở nhiều nước khác đã cổ vũ giai cấp công nhân non trẻ Việt Nam đứng lên nhận lấy sứ mệnh lãnh đạo cách mạng nước ta và đồng thời cũng là chất xúc tác khích lệ nhân dân ta lựa chọn, tiếp nhận con đường cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và đi theo con đường cách mạng của giai cấp công nhân. Từ đó giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Giai cấp công nhân Việt Nam, mà tuyệt đại bộ phận là xuất thân từ nông dân lao động và những tầng lớp lao động khác, nên có mối liên hệ tự nhiên với đông đảo nhân dân lao động bị mất nước, sống nô lệ nên cũng là điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân xây dựng nên khối liên minh công nông vững chắc và khối đoàn kết dân tộc rộng rãi bảo đảm cho sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong suốt quá trình cách mạng ở nước ta.

Vai trò lãnh đạo giai cấp công nhân trong cách mạng Việt Nam

Lịch sử Việt Nam cũng chứng minh rằng, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời chưa được bao lâu ngay cả khi nó chưa có Đảng mà đã tổ chức một cách tự phát nhiều cuộc đấu tranh chống bọn tư bản thực dân và được nhân dân ủng hộ. Cuộc bãi công của 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn năm 1922 mà Nguyễn ái Quốc coi đó mới chỉ là “do bản năng tự vệ" của những người công nhân "không được giáo dục và tổ chức" nhưng đã là “dấu hiệu... của thời đại".
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta vào đầu năm 1930 của thế kỷ XX. Đảng đã đem yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, làm cho phong trào cách mạng nước ta có một bước phát triển nhảy vọt về chất.
Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi nói giai cấp công nhân lãnh đạo là nói đến toàn bộ giai cấp như một chỉnh thể chứ không phải từng nhóm, từng người. Để có thể lãnh đạo, giai cấp công nhân phải có lực lượng, có tổ chức tiêu biểu cho sựtự giác và bản chất giai cấp của mình. Lực lượng đó là Đảng Cộng sản. Xét về thành phần xuất thân thì nước ta có nhiều đảng viên không phải là công nhân. Nhưng, bất cứ đảng viên nào cũng phải đứng trên lập trường giai cấp công nhân thể hiện ở lý tưởng, ở lý luận Mác-Lênin và đường lối cách mạng, ở tinh thần kiên quyết cách mạng trong cuộc đấu tranh để thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Điều này được Đảng ta khẳng định rất rõ: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc"
: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
. Đảng Cộng sản Việt Nam Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, đội ngũ công nhân Việt Nam bao gồm những người lao động chân tay và lao động trí óc hoạt động sản xuất trong ngành công nghiệp và dịch vụ thuộc các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, hay thuộc khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài, tạothành một lực lượng giai cấp công nhân thống nhất đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Họ là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của Đảng và Nhà nước ta, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân - nông dân - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh hình thành, điều kiện kinh tế - xã hội quy định, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những nhược điểm (như số lượng còn ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay nghề còn thấp...). Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Để khắc phục những nhược điểm ấy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VII của Đảng ta, một Nghị quyết gắn trực tiếp vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá với vấn đề xây dựng phát triển giai cấp công nhân đã chỉ rõ phương hướng xây dựng giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn hiện nay là: "Cùng với quá trình phát triển công nghiệp và công nghệ theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình"
Công cuộc đổi mới đất nước, định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Giai cấp công nhân đang đi đầu trong xây dựng xã hội mới, nhất là trong việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm thựchiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là bằng chứng chỉ rõ năng lực lãnh đạo của giai cấp công nhân nước ta, vai trò không có lực lượng xã hội nào có thể thay thế được trong sự nghiệp... “lãnh đạo thành công công cuộc xây dựng một xã hội mới,trong đó nhân dân lao động làm chủ, đất nước độc lập và phồn vinh, xoá bỏ áp bức bất công, mọi người đều có điều kiện phấn đấu cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc"..
Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt chú trọng phương hướng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: "Đối với giai cấp công nhân,phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước."

Câu 2: Sau khi có chính quyền, giai cấp công nhân tiếp tục thực hiện sứ mệnh với nội dung mới là xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Xã hội xã hội chủ nghĩa là gì? Xã hội xã hội chủ nghĩa hình thành , phát triển như thế nào? Hãy làm rõ nội dung cơ bản của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta?
Sau khi có chính quyền, giai cấp công nhân tiếp tục thực hiện sứ mệnh với nội dung mới là xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa trong đó Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh. Do đó Xã hội,Xã hội chủ nghĩa củng có những đặc trưng riêng.
Có nhận thức khoa học về "xã hội xã hội chủ nghĩa" thì chúng ta mới có thể tìm ra những nội dung cụ thể, hình thức, bước đi và những điều kiện cơ bản để xây dựng xã hội đó, theo những nấc thang phát triển từ thấp đến cao. Muốn hiểu về “xã hội xã hội chủ nghĩa”, trước hết phải hiểu những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về "hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa”, vì ở trong đó có “xã hội xã hội chủ nghĩa”.

-          Hình thái kinh tế -xã hội:
Hình thái kinh tế-xã hội là một khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng chỉ xã hội ở từng gia đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của LLSX và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
-          Hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa;
Hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa là một xã hội có quan hệ sản xuất đặc trưng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất phù hợp với tính chất xã hội hóa cao và trình độ phát triển tiên tiến, hiện đại của LLSX và một kiến trúc thượng tầng của chủ nghĩa cộng sản.
+ Quan hệ sản xuất đặc trưng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất phù hợp với tính chất xã hội hóa cao và trình độ phát triển tiên tiến, hiện đại của lực lượng sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất xã hội hóa cao, tiên tiến, hiện đại
+ Kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nó có sự khác nhau về chất và nguyên tắc xây dựng so với Chủ nghĩa tư bản.

 Xây dựng Xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội trong đó bao gồm những đặc trưng cụ thể nhất định, phản ánh đầy đủ bản chất, đặc điểm của chế độ xã hội mới, mục tiêu, lý tưởng và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nguyện vọng của quần chúng nhân dân.
Gia đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là chủ nghĩa xã hội, về cơ bản có 06 đặc trưng sau đây:

Đặc trưng thứ nhất: Cơ sở vật chất - kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
Xã hội xã hội chủ nghĩa với tính cách là một xã hội phủ định biện chứng xã hội tư bản chủ nghĩa nên cơ sở vật chất của nó nhất thiết phải là nền đại công nghiệp phát triển và hoàn thiện trên một trình độ cao của nó.
Đặc trưng thứ hai: Chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất.
Trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C,Mác đã chỉ rõ đặc trưng của CNCS không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản.
Đặc trưng thứ ba: Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
CNXH quan tâm và coi trọng việc tổ chức lao động và kỷ luật lao động nhằm khắc phục những tàn dư lao động đã bị tha hóa trong nền sản xuất TB, làm cho người lao động xứng đáng với địa vị làm chủ của mình.
Đặc trưng thứ tư: Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
Do của cải làm ra chưa dồi dào như CNCS, nên CNXH thực hiện nguyên tắc phân phối lao động; theo đó, mỗi người sản xuất được nhận từ XH một lượng sản phẩm tiêu dùng ngan với hiệu quả lao động họ làm ra cho xã hội, sau khi đã đóng góp một khoản vì lợi ích chung.
Đặc trưng thứ năm: Chủ nghĩa xã hội có Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất gia cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.
+ Đó là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
+ Chức năng nhiệm vụ của nhà nước là thực hiện sự lãnh đạo của chính Đảng của G/c-Cn đới với toàn xã hội nhằm bảo vệ và phát triển nền dân chủ XHCN, đảm bảo quyền làm chủ thuộc vế nhân dân lao động.
Đặc trưng thứ sáu: Chủ nghĩa xã hội đã giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện
Những đặc trưng trên của CNXH quan hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau, thể hiện trình độ phát triển cao hơn, tốt đẹp hơn của CNXH so với CNTB. Trong tiến trình phát triển của CNXH thực hiện, những đặc trưng đó đang được nhận thức, bổ sung hoàn thiện thêm.
2.Xã hội xã hội chủ nghĩa hình thành , phát triển;
a. Hai giai đoạn phát triển;
Xã hội cộng sản phát triển qua hai giai đoạn cơ bản. C,Mác gọi các giai đoạn đó là giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp và giai đoạn sau hay giai đoạn cao. Lê Nin gọi giai đoạn đầu là CNXH hay xã hội xã hội chủ nghĩa, giai đoạn cao là CNCS hay xã hội CNCS.
Hai giai đoạn phát triển trong một xã hôi thống nhất, do đó có điểm giống nhau về bản chất. sự giống nhau về kinh tế là cùng tồn tại trên cơ sở chế độ công hữu TLSX, sự giống nhau về chính trị là người lao động làm chủ .
Sự khác nhau về kinh tế thể hiện tập trung là ở giai đoạn đầu thực hiện “phân phối theo lao động”, giai đoạn cao “phân phối theo nhu cầu”. sự khác nhau về chính trị là ở giai đoạn đầu còn sự khác giai cấp và còn nhà nước; giai đoạn cao không còn sự khác giai cấp , không còn nhà nước.
Hai giai đoạn cùng trong một hình thái kinh tế - xã hội, do đó giống nhau về bản chất, khác nhau ở trình độ phát triển.
b. Đặc trưng bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa;
- Đặc trưng vế chính trị.
Xác nhập quyền làm chủ của nhân dân lao động. dưới chế độ xô viết giáo dục và chăm sóc sức khẻo miễn phí được đảm bảo, nhà ở củng được phân phối miễn phí.
-          Đặc trưng vế chính trị:
Phải phát triển nhanh LLSX cả trong nông nghiệp, công nghiệp, phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.
-          Đặc trưng về xã hội:
Ở hai giai đoạn còn các mối quan hệ xã hội gắn với quan hệ giai cấp và do đó quá trình giải quyết các quan hệ xã hội đều chịu sự chi phối của đường lối chính trị của giai cấp công nhân.
-          Đặc trưng về văn hóa:
Xây dựng nền văn hóa trên cơ sở kế thừa tinh hoa của văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại.
C. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
* Quan niệm của C,Mác và Ph,Ăngghen về thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS.
Trong quan niệm đó, thời kỳ quá độ được coi là một quá trình cải biến cách mạng từ xã hội TBCN lên xã hội CSCN.
·         Quan niệm của Lê Nin thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS.
Lê Nin gọi đó là thời kỳ “quá độ đặc biệt” Lê Nin khẳng định thời kỳ quá độ theo nghĩa rộng nhất như C.Mác đã chỉ ra, đồng thời Người củng chỉ rõ : trong thời kỳ quá độ ấy, chúng ta đang phải trải qua một loạt thời kỳ quá độ trong đó có thời kỳ quá độ lê chủ nghĩa xã hội
.
3.Nội dung cơ bản của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
a. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về những đặc trưng cơ bản của CNXH.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ  quá độ lê CNXH được Đại hội VII thông qua năm 1991 ghi rõ, xã hôi XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
+ Do nhân dân lao động làm chủ.
+ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trê LLSX hiện địa và chế độ công hữu về các tư tiệu sản xuất chủ yếu.
+ Có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc .
+ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất công; làm theo năng lực, hưởng theo lao động ; có cuộc sống ấm no, tự do hnah5 phúc có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
+ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
+ Có quan hệ hữu nhgi5 và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
b. Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam:
- Về mục tiêu gắn liền với : Độc lập gắn liền với CNXH: “dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” cơ sở của mục tiêu ấy đó là lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của nhân dân và dân tộc.
- Về điểm xuất phát:
Con đường quá độ lên CNXH ở nước ta xuất phát điểm thấp, nền SX nhỏ, kỷ thuật thủ công…. Bỏ qua chế độ TBCN.
-          Về chủ thể:
+ Thể hiện rỏ bản chất chính trị của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là:
+ Do nhân dân làm chủ.
+ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng theo phương hướng “ nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân” Quá trình phát triển của đất nước theo định hướng XHCN. Đảng công sản Việt Nam lấy CN Mác-Lê Nin, tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng.
-          Về động lực chủ yếu con đường đi lên CNXH ở nước ta:
+ Xây dựng nền dân chủ XHCN: phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giữ giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
-          Về kinh tế:
+ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên cơ sở một LLSX hiện đại và từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới.
-          Về văn hóa:
Kết hợp phát triễn kinh tế với xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
-    Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn liền với chủ động và tích cực hội nhập kinh tế thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại phù hợp điều kiện hiện nay.
Đảm bảo vững chắt quốc phòng và an ninh quốc gia, xây dựng CNXH đi đôi với bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hôi chủ nghĩa.

  Còn 02 câu nũa mình đang soạn
Lưu ý: đây chỉ là ý kiến chủ quan của người viết không phải là đáp án;
            Chúc Thành Công

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét