____________
Câu
1 Bằng lý luận thực tiễn, hãy phân tích để khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân vẫn giữ nguyên giá trị trong thời đại hiện nay ? Liên hệ sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam ?
Sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất, xuất sắc nhất của CNXH khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại nhất của Chủ nghĩa Mác. Trước
sự khủng hoảng và sụp đổ của CNXH ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều người đã bộc lộ sự
dao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Các phần tử cơ
hội, xét lại và các thế lực thù địch đã lợi dung để tuyên truyền nhằm phủ nhận
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhận và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, vấn đề làm
sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nhất là trong bối cảnh lịch sử
hiện nay đang đặt ra một cách bức thiết trên cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn.
Khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân còn có ý nghĩa rất lớn
trong việc hiểu rõ ý nghĩa và nội dung căn bản cụ thể của giai cấp công nhân Việt
Nam trong giai đoạn mới – giai đoạn phải thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giai
cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Giai cấp CN là gc của những người lđ được hình thành
và phát triển cùng với nền sxcn ngày càng hiện đại và xh hoá cao; là gc đại diện
của llsx và ptsx tiên tiến trong thời đại hiện nay, có sứ mệnh lsử lđạo và tổ
chức ndlđ các nước tiến hành cm xhcn, xd chế độ xhcn, cscn.
Những
đặc điểm cơ bản chung nhất của gccn:
Là
gc của những người lđ sx ra vchất là chủ yếu (với trình độ trí tuệ ngày càng
cao, đồng thời cũng ngày càng có những sáng chế, phát minh lý thuết được ứng dụng
ngay trong sx). Vì thế, gccn vẫn có vai trò qđịnh nhất sự tồn tại và ptriển của
xh.
Có
lợi ích cơ bản đối lập với lợi ích cơ bản của gcts ( gccn: xoá bỏ chế độ tư hữu,
xoá bỏ áp bức blột; giành cquyền và làm chủ xh. Gcts không bao giờ tự rời bỏ những
vấn đề cơ bản đó). Do vậy, gccn có tinh thần cm triệt để.
Là
“ gc dtộc”- vừa có qhệ qtế, vừa có bản sắc dtộc, và chịu trách nhiệm trước hết
với dtộc mình.
Có
hệ ttưởng riêng của gc mình: đó là cn M-L p.ánh sứ smls của gccn, đồng thời hệ
ttưởng đó dẫn dắt quá trình gccn thực hiện smls của gc mình nhằm giải phóng xh,
giải phòng con người. gccn có Đảng tiên phong của mình là ĐCS ( Đảng M-L).
Bất
kỳ gccn nước nào, khi đã có đảng tiên phong của nó, đều có những đặc điểm cơ bản-
chung nhất đó. Do vậy, gccn mỗi nước đều là một bộ phận kg tách rời gccn các nước
trên toàn tgiới. Vì vậy cn M-L mới có quan điểm đúng đắn về smls toàn thế giới
của gccn.
Ngoài những đặc điểm cơ bản -chung nhất
của gccn nêu trên, gccn có những đặc điểm riêng do những điều kiện lsử cụ thể tạo
ra:
Trong chế độ tbcn, gccn chưa làm chủ sở hữu
các tlsx của xh. Họ là gc làm thuê và bị gcts bóc lột, thống trị.
Trong đk đã lãnh đạo xh đi lên cnxh,
gccn đã đã cùng toàn dân làm chủ chủ sở hữu các tlsx chủ yếu cảu toàn xh; đảng
của nó đã lđạo xh về mọi mặt. Ngoài ra, gccn mỗi nước còn có sự khác nhau về
tính dân tộc, về ls hình thành, về trình độ mọi mặt và mức sống … gắn với đặc
thù quốc gia dtộc.
Smls
của gccn: 03 nội dung cơ bản
Trực tiếp sx ra những sp cnghiệp ngày
càng hiện đại- cơ sở vchất kỹ thuật, cơ sở ktế cho tất cả các nước theo xu hướng
cnh, hđh và phát triển ngày càng cao. Không có gccn lớn mạnh, không một qgia
nào ( kể cả các qgia phát triển nhất hiện nay) có thể tồn tại và ptriển được.
Thông qua đảng tiên phong của mình, gccn
lđạo và tổ chức để ndlđ giành cq, xoá bỏ cq của chế độ tư hữu, áp bức, blột; xd
cq của gccn và ndlđ.
Thông
qua đảng tiên phong của mình lđạo, tổ chức ndlđ xd và bảo vệ xh, tiến dần lên
cncs ở mỗi nước và trên toàn tgiới. Đây là nội dung cơ bản qđịnh cuối cùng, rất
mói mẻ, phức tạp, do đó việc thực hiện nó còn phải qua quá trình lịch sử rất
lâu dài (không thể nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí mà hoàn thành được nội
dung này).
Những điều kiện khách quan quy định
smls của gccn:
Nền
sxcn ngày càng hiện đại đã kquan tạo ra gccn, họ vốn có những đặc điểm: đại diện
cho ptsx tiên tiến, có lưọi ích cơ bản đối lập với lợi ích của gcts; có tinh thần
cm triệt để, có ý thức tổ chức kỷ luật cao; có hệ tư tưởng riêng, có chính đảng
tiên phong … Do đó, kg một gc hay tầng lớp nào có được những đặc điểm như gccn-
“ gc cn là sp của đại công nghiệp” – Mác, Ăngghen nhận định như vậy là hoàn
toàn đúng.
Qua
sự ptriển sxcn, gccn được trang bị nhiều kthức mới về vh cơ bản, khcn, tay nghề,
nhận thức chính trị … và đó cũng là yêu cầu kquan ngày càng cao của sự ptriển
công nghiệp ngày càng hiện đại đối với gccn.
Nền
sxcn ngày càng hiện đại và xh ho, qtế hoá ngày càng cao thì gccn càng được tăng
thêm lực lượng ( cả về slượng lẫn chất lượng). Sự gia tăng này là do các gc, tầng
lớp xh ngày càng được lôi cuốn tham gia vào các qtrình sxcn hiện đại và nhiều
hđộng ct-xh khác, họ cùng vươn lên làm chủ sx hiện đại, làm chủ xh. Đúng như cn
M-L đã chỉ rõ: gccn đã được “ tuyển mộ” từ các gc, tầng lớp xh khác ( như nd,
trí thức, tiểu ts, tiểu chủ, học sinh …) Đó là một xu thế kquan của lsử.
Trong
cntb có mâu thuẩn cơ bản hình thành một cách kquan, gồm 2 mặt: Mặt ktế đó là
mâu thuẫn giữa llsx ngày càng xh hoá cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tbcn về
tlsx; Mặt ctrị-xh đó là mâu thuẫn giữa gccn và gcts. Cả 2 mặt của mâu thuẩn cơ
bản này kg thể gquyết triệt để trong khuôn khổ cntb, tất yếu dẫn đến cm xhcn do
gccn lđạo và tổ chứ. Đó là quy định kquan cho smls của gccn. Trí thức, nd … sẽ
là lực lượng tham gia vào cuộc cm xhcn chức kg thể là lực lượng lđạo và tổ chức
cuộc cm xhcn. Bời vì, trí tứhc và nd không đại biểu cho một ptsx riêng trong lsử;
không có một hệ tư tưởng riêng. Vả lại, trong cntb, mâu thuẩn cơ bản là mâu thuẩn
trực tiếp giữa gccn và gcts, do đó cm xhcn phải là của gccn lđạo tiến hành lật
đổ gcts để giải phóng gccn, đồng thời giải phóng cho cả nd, trí thức và nd bị
áp bức, bóc lột.
Chủ
nghĩa tư bản tuy có công làm cho Xh loài người phát triển và thay thế chế độ
phong kiến điều đó không thể chói bỏ, nhưng CNTB cũng gây nhiều tội ác với XH
loài người, với tự nhiên bởi sự khai thác
tàn phá tự nhiên, về tài nguyên, về môi trường , qhxh là quan hệ áp bức
bất công, vô nhân đạo , phi nhân tính ắc sẽ đư XH đi tới diệt vong. Chỉ có CNXH
mới có thể ngăn chặn và khắc phục những hạn chế yếu kém đó của CNTB, để loài
người tiếp tục sống trong một XH phát triển nhanh bền vững. trên cơ sở lý luận
và thực tiển những điều kiện khách quan cơ bản trên do đó đối với hiện nay tuân
thủ theo quy luật hoạt động lịch sử thì XH loài người vẫn đang tiếp tục trong
bước quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới và bước quá độ này phải
do lực lượng tiến bộ nhất trong XH do gccn lãnh đạo tổ chức và thực hiện, ngoài
gccn ra không có thể có một lực lượng nào khác đảm đương được.
Những đặc điểm cơ bản của gccn VN:
Ngoài những đặc điểm cơ bản- chung nhất
của gccn như gccn các nước, gcnn VN có những đặc điểm riêng do hoàn cảnh lsử cụ
thể tạo ra:
Ra đời từ một nước nn lạc hậu lâu đời, một
nước thuộc địa nửa pk, sau cuộc khai thác thuộc địa của thực dân xâm lược Pháp
( cuối tk XIX, đầu tk XX).
Đại đa số xuất thân từ nông dân nghèo ra
đô thị, vào các đồn điền, xưởng máy nhỏ .. làm thuê cho chủ tư bản xâm lược.
Khi ra đời, trình độ kh kỹ thuật, tay
nghề và mức sống còn thập, vì VN lúc đó chưa có nền cn hiện đại và chịu aảnhhưởng
nặng nề của sx nhỏ, tiểu nông.
Có truyền thống lđ cần cù, yêu nước nồng
nàn, gắn bó mật thiết với dtộc, nhất là nông dân và các tầng lớp lđộng.
Sớm
được giác ngộ cm và thành lập đảng tiên phong do HCM- Người đưa cn M-L và VN và
đông dương- sáng lập và rèn luyện. Gccn sớm trở thành gc lđạo cm VN từ khi có Đảng
của nó. Hơn 70 năm qua, gccn và nd VN đã thu được nhiều thắng lợi lớn trong cm
giải phóng dtộc và xd cnxh.
Trong
công cuộc đổi mới hiện nay, tuy đã có nhiều thành tựu to lớn, song gccn VN vẫn
có nhiều mặt hạn chế, đặc biệt là về trình độ văn hoá cơ bản, khcn và tay nghề;
giác ngộ ct và mức sống tuy có khá hơn sau những năm đổi mới có kết quả, nhưng
nhìn chung cũng còn hạn chế, chưa tương xứng với yêu cầu đẩy mạnh cnh, hđh theo
định hướng xhcn.
Hội
nghị Ban chấp hành TW 6, khóa X của Đảng xác định mục tiêu xây dựng giai cấp
công nhân VN đến năm 2020:
+Xây
dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị
vững vàng; yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội tiêu biểu cho tinh hoa văn hóa dân
tộc;
+
Nhạy bén và vững vàng trước những phức tạp của tình hình thế giới và những biến
đổi của tình hình đất nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc và hợp tác quốc tế;
+
Xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng thộng qua đội tiền phong là đảng cộng
sản vn, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước;
+
Là nồng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng;
+
Phát triển nhanh chóng về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng được
yêu cầu phát triển của đất nước;
+
Ngày càng được trí thức hóa, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học – khoa
học tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế trí thức; có tác
phong công ngiệp và kỷ thuật lao động cao; thích ứng nhanh với cơ chế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Các
mục tiêu quan hệ chặc chẽ với nhau, để xây dựng giai cấp công nhân vững
mạnh, thực hiện giai cấp lãnh đạo cách mạng , giai cấp tiên phong và đi đầu
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc VN xhcn, thực hiện thắng lợi
mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
____________
Câu
2 Hãy trình bày vai trò của Đảng Cộng Sản đối với sứ mệnh lich sử của giai cấp
công nhân ? Liên hệ Đảng Cộng Sản Việt Nam ?
TRẢ
LỜI
GCCN
muốn thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình phải có Đcs lãnh đạo. Đó là nguyên lý tất
yếu khách quan, là điều kiện chủ quan quyết định gccn hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của mình. Vì chỉ có ĐCS mới trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp
công nhân là yếu tố quyết định đảm bảo cho giai cấp công nhân hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình.
Có
ĐSC lãnh đạo cuộc đấu tranh của gccn mới chuyển từ tự phát thành tư giác.
Có
ĐCS lãnh đạo thì giai cấp công nhân mới có đường lối, phương pháp cách mạng
đúng để tập hợp, đoàn kết các tầng lớp, giai cấp xã hội khác, đoàn kết toàn dân
tộc tiến hành cánh mạng xhcn thắng lợi.
II
ĐẢNG CỘNG SẢN LÀ GÌ ?
Tháng 02 năm 1930 ĐCS VN ra đời do chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập, trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Đảng đã khẳng định
:
ĐCS là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
là một tổ chức chính trị thống nhất, chặt chẽ gồm những người ưu tú nhất trong
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc; lấy chủ nghĩa Mac – lenin làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của mình.
ĐCS
có vai trò quyết định định đảm bảo cho giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình. Bởi vì ĐSC là một bộ phận hữu cơ, nằm trong giai cấp công
nhân. Đảng chẳng những là đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp công nhân
mà còn là đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của toàn thể nhân dân lao động và dân
tộc. Đảng thể hiện vai trò quyết định qua 03 mặt sau:
+
Đảng là đội tiên phong: ĐCS thể hiện vai trò tiên phong không những của gccn và
còn của cả dân tộc, tùy theo từng trường hợp CM của từng nước, từng thời điểm mà
Đảng thể hiện vai trò tiên phong, như ở đầu thế kỷ XX lúc bấy giờ đấu tranh
trong CNTB rất đơn giản mà Mác giọ là “hai phe” giữ gcts và gccn nhưng khi bước
sang giữa thế kỷ XX đấu tranh trong CNTB đã chuyển sang giai đoạn cao hơn lúc bấy
giờ thì phía gccn gồm gccn và các tầng lớp lao động khác trong xã hội, phía
gcts bao gồm cntb đế quốc và các thế lực phản động. Do đó vai trò tiên phong của
ĐCS không chỉ của gccn mà của cả nhân dân lao động. Như ở VN đất nước thời kỳ
thuộc địa nữa phong kiến, ĐCS không những tiên phong trong gccn, nhân dân lao động
mà còn tiên phong trong cả dân tộcVN. Đó là tiên phong về trình độ chí tuệ, tiên
phong về lý luận, tiên phong về hành động tấm gương là sự gương mẫu của người ĐCS trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù. chỉ có gccn nào xây dựng cho mình một Đảng vững vàng tiêu
biểu về cả quan điểm, chí tuệ về cả hành động trong quá trình CM thì mới đi đến
thành công.
+
Vai trò lãnh tựu chính trị: là vai trò đảng đề ra cương lĩnh, đường lối cách mạng,
trong quá trình CM gccn có thể hình thành nhiều tổ chức chính trị nhưng tính tiên
phong trong vai trò chính trị chỉ có thể là ĐCS, các tổ chức khác như công đoàn
không thể là lãnh tựu chính trị. Đảng tiên phong trong vai trò lãnh tựu chính
trị, tiên phong về lý luận trên nguyên tắc
CNMLN và vận dụng vào từng điều kiện lịch sử cụ thể trong nước cho phù hợp. để đưa
ra cương lĩnh, đường lối CM trong nước đúng đắn sáng tạo như vậy mới sứng đáng
là lãnh tựu chính trị, mới đưa CM đi đến thành công.
+
Vai trò tham mưu chiến đấu: Nếu đảng thể hiện vai trò tiên phong, vai trò lãnh
tựu chính trị bảo đảm nhưng vai trò tham mưu chiến đấu không đảm bảo thì Đảng sẻ
không thành công. Vì vậy vai trò tiên phong, vai trò lãnh tựu chính trị vai trò
tham mưu chiến đấu cũng phải thể hiện một cách tài tính xuất sắc thì CM mới thắng
lợi, SMgccn mới hoàn thành được.
Hiện
nay gccn muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình nhất thiết phải xây dựng một
ĐCS toàn diện, Đảng phải tuân thủ vai trò tiên phong, đảm bảo vai trò lãnh đạo
chính trị, đặc biệt là vai trò tham mưu chiến đấu phải thể hiện một người tham
mưu tài tình mới đưa được cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng.
Những vai trò tham mưu đó đã được ĐCS VN thể
hiện một cách xuất sắc trong cách mạng tháng tám, đặt biệt là 02 cuộc CM chống
pháp, chống Mỹ cứu nước và cuộc CM đổi mới đất nước, thể hiện qua chiến thắng ĐBP,
chiến dịch HCM lịch sử thống nhất đất nước. trong công cuộc đổi mới đất nước của
các nước CNXH đã có không ít nước đã thể hiện vai trò tham mưu của Đảng yếu kém
đã đánh mất vai trò lãnh đạo của Đảng. nhưng tuy trong điều kiện đất nước vô cùng
khó khăn sau chiến tranh mà ĐCS VN đã tham mưu xuất sắc trong cuộc CM đổi mới đạt
được những thành tựu vô cùng to lớn, trong thực tiễn đất nước thoát khỏi tình
trạng lạc hậu yếu kém, vị thế ngày càng được nâng lên trong khu vực và trên thế
giới.
Bên
cạnh những kết quả đạt được, Hiện nay công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít
hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm
kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu
không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự
tồn vong của chế độ. Nổi lên một số vấn đề cấp bách sau đây:
Một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí
lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng,
sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền
tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...
Đội
ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng, nhưng chưa được xây
dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa
phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá,
không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ. Một số
trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu
cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ
quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước
Để
tạo chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới, cần tiếp
tục thực hiện tốt 8 nhiệm vụ trong công tác xây dựng Đảng mà Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra, coi đó là những nhiệm vụ vừa cơ bản,
vừa lâu dài và phải thực hiện thường xuyên, có hiệu quả, đồng thời tập trung
cao độ để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt ba vấn đề cấp bách sau đây:
Một
là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước
hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với
Đảng.
Hai
là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp trung ương,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế.
Ba
là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền
trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng.
Trong ba vấn đề trên, vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất
Trong ba vấn đề trên, vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất
Đẩy
lùi được những hạn chế yếu kém trên Đảng mới đảm bảo được vai trò quyết định
của Đảng Cộng Sản đối với sứ mệnh lich
sử của giai cấp công nhân.
____________
Câu
3: Hãy nêu những đặc trưng cơ bản của xã hội xã
hội chủ nghĩa ? liên hệ với đặt trưng chủ nghĩa xã hội ở VN ?
TRẢ LỜI
1.
Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin:
CNXH
là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nó có sự
khác nhau về chất và nguyên tắc xây dựng so với Chủ nghĩa tư bản. Dựa vào cơ sở
lý luận khoa học của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn
xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể nêu ra những đặc trưng cơ bản của
chủ nghĩa xã hội như sau:
-
Đặc trưng thứ nhất: cơ sở vật chất – kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội là nền sản
xuất công nghiệp hiện đại.
Chỉ
có nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa năng suất lao động lên cao, tạo ra
ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu về
vật chất và văn hóa của nhân dân, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn
dân. Nền công nghiệp hiện đại đó được phát triển dựa trên lực lượng sản xuất đã
phát triển cao. –
Đặc
trưng thứ hai: Chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết
lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thủ
tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực chất của
công cuộc cải tạo xã hội theo lập trường của giai cấp công nhân. Tuy nhiên,
không phải xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa.
Chủ
nghĩa xã hội được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở hữu
xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập
thể. Chế độ sở hữu này được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm thích ứng với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển, xóa bỏ dần những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội, làm cho
mọi thành viên trong xã hội ngày càng gắn bó với nhau vì những lợi ích căn bản.
-
Đặc trưng thứ ba: Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao
động mới.
Quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một quá
trình hoạt động tự giác của đại đa số nhân dân lao động, vì lợi ích của đa số
nhân dân. Chính bản chất và mục đích đó, cần phải tổ chức lao động và kỷ luật
lao động mới phù hợp với địa vị làm chủ của người lao động, đồng thời khắc phục
những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ.
-
Đặc trưng thứ tư: Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động
– nguyên tắc phân phối cơ bản nhất.
Chủ
nghĩa xã hội bảo đảm cho mọi người có quyển bình đẳng trong lao động sáng tạo
và hưởng thụ. Mọi người có sức lao động đều có việc làm và được hưởng thù lao
theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Đó là một trong những
cơ sở của công bằng xã hội ở giai đoạn này.
-
Đặc trưng thứ năm: Chủ nghĩa xã hội có Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước
kiểu mới, nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và
tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân.
Nhà
nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thông qua nhà nước, Đảng lãnh
đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích
của mình trên mọi mặt của xã hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công
việc nhà nước. Đây là một “nhà nước nửa nhà nước”, với tính tự giác, tự quản
của nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính
mình ngày càng rõ hơn.
-
Đặc trưng thứ sáu: CNXH đã giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, thực
hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con
người phát triển toàn diện.
Mục
tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức
về kinh tế và nô dịch về tinh thần, bảo đảm sự phát triển toàn diện cá nhân,
hình thành và phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi người phát huy
tính tích cực của mình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhờ xóa bỏ
chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa mà xóa bỏ sự đối kháng giai cấp, xóa
bỏ tình trạng người bóc lột người, tình trạng nô dịch và áp bức dân tộc, thực
hiện được sự công bằng, bình đẳng xã hội.
Những
đặc trưng trên phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội, nói lên tính ưu việt của
chủ nghĩa xã hội. Và do đó, chủ nghĩa xã hội là một xã hội tốt đẹp, lý tưởng,
ước mơ của toàn thể nhân loại. Những đặc trưng đó có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Do đó, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải quan tâm đầy đủ
tất cả các đặc trưng này.
NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CNXH VIỆT NAM
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu và lý tưởng của toàn Đảng và toàn
dân ta. Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã lãnh đạo toàn dân đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước,
dựng nên nhà nước dân chủ cộng hòa, tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, nhằm thực hiện lý tưởng cao đẹp của toàn Đảng, toàn dân: xây dựng Việt
Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Tại Đại hội Đảng Lần Thứ XI “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) đã điều chỉnh,
chuẩn hóa một số nội dung và cô đọng hóa một số đặc trưng. Xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng
sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
1 - Đặc trưng bao quát nhất của xã hội xã hội
chủ nghĩa do nhân dân ta xây dựng được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định, là: “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là
những giá trị xã hội tốt đẹp nhất, ước mơ ngàn đời của loài người, cho nên cũng
là mục tiêu phấn đấu của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, đây là đặc trưng phổ quát,
có tính bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện sự khác nhau căn bản,
sự tiến bộ hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ xã hội trước
đó. Xã hội tư bản có đời sống vật chất và tiện nghi rất cao; dân có thể giàu,
nước có thể mạnh, nhưng từ trong bản chất của chế độ xã hội tư bản, ở đó không
thể có công bằng và dân chủ: nhà nước là nhà nước tư sản; giàu có là cho nhà tư
bản; sự giàu mạnh có được bằng quan hệ bóc lột. Trong xã hội như vậy, người dân
không thể là chủ và làm chủ xã hội.
2
- Xã hội “do nhân dân làm chủ”.
“Làm
chủ” được coi là bản chất và quyền tự nhiên của con người, bởi xã hội là xã hội
của loài người, xã hội đó do con người tự xây dựng, tự quyết định sứ mệnh của
mình; tuy nhiên trong thực tiễn lại là chuyện khác. Lịch sử đấu tranh cho tiến
bộ của nhân dân các dân tộc trên thế giới chính là lịch sử đấu tranh giành và
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Chỉ đến chủ nghĩa xã hội, nhân dân mới
thực sự có được quyền đó. Cho nên “nhân dân làm chủ xã hội” là đặc trưng quan
trọng và quyết định nhất trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đặc
trưng này không thể tách rời những yêu cầu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
3 -
“Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp”.
Để
có được một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, điều tiên quyết là
xã hội đó phải có một nền kinh tế phát triển. Bởi vì kinh tế là lực lượng vật
chất, nguồn sức mạnh nội tại của cơ thể xã hội, nó quyết định sự vững vàng và
phát triển của xã hội. Với các nội dung và lô-gíc vận động như đã luận giải
trên, Đảng ta đã tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, mà trước mắt là hoàn thiện thể chế của nó; đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, nhằm xây dựng một lực lượng
sản xuất hiện đại để có một nền kinh tế phát triển cao - điều kiện bảo đảm cho
sự phát triển bền vững xã hội xã hội chủ nghĩa.
4
- “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Nếu
như “nền kinh tế phát triển cao” là nội lực, là sức mạnh vật chất cho phát
triển xã hội thì văn hóa là nguồn lực tinh thần bên trong của phát triển xã
hội. Văn hóa là tinh hoa con người và dân tộc, tinh hoa xã hội và thời đại; bởi
vậy, nó là sức mạnh con người và dân tộc, sức mạnh xã hội và thời đại.
Để
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần kế thừa và phát huy những
giá trị, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc; đồng thời, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại và văn hóa thời đại để phát triển văn hóa Việt
Nam thực sự là nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một vườn
hoa muôn sắc các phẩm chất, các giá trị, ở đó bản sắc văn hóa các dân tộc, cộng
đồng người khác nhau phải được độc lập tồn tại, tôn vinh, phát huy, phát triển.
Chính vì vậy, Đảng ta chủ trương phát triển nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm
đà bản sắc dân tộc; thống nhất trong đa dạng, làm phong phú diện mạo văn hóa
Việt Nam.
5
- “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện”.
Nói
đến cùng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, quá trình phấn đấu đạt tới những giá
trị của xã hội xã hội chủ nghĩa đều là vì con người. Con người là thực thể cao
nhất của giới tự nhiên, nó là sản phẩm của thiên nhiên nhưng cao siêu và bí ẩn
gấp ngàn lần thiên nhiên. Bởi con người có trí tuệ và tình cảm, có khát vọng và
khả năng chiếm lĩnh những đỉnh cao hiểu biết để tạo cho mình một thế giới Người
- thế giới Văn hóa. Cho nên lịch sử của loài người là lịch sử con người đấu
tranh xóa bỏ mọi lực cản thiên nhiên và xã hội để vươn tới một xã hội cao đẹp
nhất - xã hội đó chính là xã hội xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng người nhất của
khát vọng con người là hạnh phúc. Bởi có thể người ta giàu có, đầy đủ tiện
nghi, được phát triển, song vẫn bất hạnh. Hạnh phúc là trạng thái yên lành, hài
hòa, là tinh thần thoải mái biểu hiện sự mãn nguyện thanh cao nhất của con
người. Phấn đấu đạt tới một xã hội bảo đảm hạnh phúc cho con người, đó là một
xã hội văn hóa cao.
6 -
“Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ
nhau cùng phát triển”.
Nếu
như các đặc trưng nêu trên (kinh tế, văn hóa, con người) là những yếu tố thuộc
phẩm chất bên trong tạo nên một chỉnh thể xã hội, thì ở đặc trưng này đòi hỏi
những yếu tố thiết yếu cho sự tồn tại bền vững của xã hội lành mạnh. “Bình
đẳng” là một phẩm chất và giá trị nhân quyền thể hiện trình độ phát triển và chất
nhân văn cao của xã hội. “đoàn kết” là sức mạnh - đó là một chân lý. Hồ Chí
Minh đã khái quát một chân lý: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công,
thành công, đại thành công. Đồng thời đây cũng là một giá trị đặc trưng của xã
hội xã hội chủ nghĩa. “Bình đẳng” và “đoàn kết” chính là nền tảng của sự “tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Đoàn kết toàn dân, tôn trọng và giúp đỡ
nhau giữa các dân tộc đã làm nên thành công của cách mạng Việt Nam. Và giờ đây,
tinh thần đó, phương châm đó đang là những nét đặc sắc của giá trị xã hội xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
7
- “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”.
Nhà
nước pháp quyền là một hình thức quản lý nhà nước trên một trình độ cao và hiệu
quả. Nó điều hành hoạt động của các cơ quan nhà nước và xã hội bằng pháp luật.
Nhưng vấn đề ở đây là pháp luật nào? Pháp luật của ai và vì ai?
Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý và điều hành đất nước và
xã hội bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí của nhân dân; vì vậy, là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đây
là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân không thể nào khác là dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đảng mang bản
chất, lý tưởng, nội dung xã hội chủ nghĩa, là đảng thực hiện mục tiêu và lý
tưởng xã hội chủ nghĩa.
8
- “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.
Theo
nguyên lý phát triển xã hội, đặc biệt trong thế giới hiện đại, mỗi quốc gia là
một bộ phận hợp thành cộng đồng quốc tế. Sự phát triển quốc gia xã hội chủ
nghĩa Việt Nam chỉ có được khi đẩy mạnh “quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trên thế giới”. Quan hệ hữu nghị và hợp tác chính là thể hiện bản chất hòa
hảo, thiện chí và tạo điều kiện cho các quốc gia hội nhập, tiếp thu những thành
quả phát triển của mỗi bên, tích lũy kinh nghiệm và rút ngắn quá trình phát
triển của mỗi nước. Điều có ý nghĩa lớn lao hơn là ở chỗ, “hữu nghị”, “hợp
tác”, “phát triển” chính là bản chất, là khát vọng hòa đồng theo bản chất trí
tuệ và tình cảm nhân văn cao cả có tính nhân loại của con người, của loài người;
điều thể hiện bản chất cao đẹp nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Với tinh thần và tư duy biện chứng về phát triển xã
hội, Đảng ta quan niệm: Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình vận động,
chuyển hóa liên tục, không ngừng phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn. Các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa cũng luôn luôn
vận động, chuyển hóa và phát triển. Mười, mười lăm, hai mươi năm tới, các đặc
trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa hiện nay chắc chắn sẽ có những bổ sung mới đáp
ứng đòi hỏi mới của phát triển xã hội. Điều đó đặt ra cho Đảng ta trọng trách
là phải không ngừng đổi mới tư duy, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để
vừa tiếp tục khám phá ra những vấn đề, những nội dung, những đặc trưng mới, vừa
sáng suốt lãnh đạo toàn dân ta xây dựng xã hội đạt tới các phẩm chất và các giá
trị, vươn tới các đặc trưng mới của xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai./.
____________
C âu 4: Dựa trên cơ sở nào Đảng ta khẳng định: Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa? Hãy làm rõ nội dung bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa theo quan điểm của Đảng ta?
Lịch sử vận động và phát triển của
cách mạng Việt Nam, thực tiễn phát triển của thế giới suốt thế kỷ XX, cũng như
thập niên đầu thế kỷ XXI đã chứng minh rằng, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế vận
động tiến bộ của thời đại và điều kiện lịch sử - cụ thể của Việt Nam.
Trong
xu thế vận động chung đó của thế giới, thì việc Việt Nam “đi lên chủ nghĩa xã hội
là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử… Đây là
một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và
cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát
triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Điều đó được lý giải bởi những lẽ sau:
Thứ nhất, trong lịch sử xã hội loài người giữa
hình thái kinh tế - xã hội (HTKTXH) cũ và HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ
cũng có một thời kỳ quá độ (TKQĐ). Lịch sử phát triển của xã hội loài người là
lịch sử phát triển và thay thế nhau của các HTKTXH. Song, không phải HTKTXH này
kết thúc hoàn toàn rồi HTKTXH tiếp sau mới ra đời. Giữa HTKTXH cũ bị thay thế
và HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một giai đoạn chuyển tiếp, một
TKQĐ.
Thứ hai, học thuyết Mác - Lê-nin chứng minh
rằng, loài người với tính cách một chỉnh thể nhất thiết phải trải qua 5 HTKTXH.
Nhưng, do đặc điểm lịch sử - cụ thể do những điều kiện đặc thù khách quan và
chủ quan, bên ngoài và bên trong chi phối, không phải quốc gia nào cũng tuần tự
trải qua tất cả các HTKTXH từ thấp đến cao theo một trình tự sơ đồ chung. Mà có
những nước có thể bỏ qua một hoặc vài HTKTXH nào đó trong tiến trình phát triển
của mình. Sự bỏ qua này đã và đang diễn ra trong lịch sử. ví dụ nước Mỹ từ một
nước chiếm hữu nô lệ đã tiến thẳng lên CNTB bỏ qua chế độ Phong kiến.
Thứ ba, cũng như lịch sử xã hội loài người nói
chung, trong thời đại ngày nay, việc bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN quá độ
lên CNXH ở Việt Nam
là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Điều đó được quy
định bởi:
Một là, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể hiện nay
nước ta có những điều kiện khách quan bên ngoài và bên trong để quá độ lên CNXH
bỏ qua chế độ TBCN. Điều kiện bên ngoài là sự phát triển như vũ bão của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ làm cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển
đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai đoạn mới của quá trình xã hội hóa sản
xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực để
nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của
thế giới cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nếu chúng ta
thực hiện hiệu quả phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác kinh
tế quốc tế. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất
- kỹ thuật, xã hội loài người đòi hỏi phát triển lên một xã hội mới của nền văn
minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó, quá độ lên CNXH
là con đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau CNTB nhất định phải là một
chế độ xã hội tốt đẹp hơn - chế độ XHCN. Bối cảnh, điều kiện quốc tế mới nêu
trên đã tạo khả năng để Việt Nam
chúng ta thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Điều kiện bên trong là
nước ta đã giành được độc lập dân tộc, có chính quyền của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với những thắng lợi
đã giành được trong hơn 80 năm qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử của hơn 25 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước
nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung
bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi,
có vị thế quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là
điều kiện tiên quyết, quyết định con đường quá độ lên CNXH ở nước ta.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà trình độ phát triển kinh tế - xã hội
chưa vượt hoàn toàn khỏi tiến trình phát triển của CNTB, tiến trình đó phải
được tiếp tục đẩy mạnh dưới chính quyền của nhân dân, mà hình thức thích hợp
nhất là CNTB nhà nước và kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHCN
theo định hướng XHCN. Đó cũng là tư tưởng cốt lõi của Chính sách kinh tế mới
(NEP) trong TKQĐ lên CNXH do Lê-nin vạch ra.
Hai là, hai xu hướng phát triển khách quan của nền kinh tế nước ta
và sự lựa chọn một trong hai xu hướng đó. Sau khi giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp,
nền kinh tế nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên
lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản
xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
Chúng ta không đi theo con đường TBCN vì thời
đại ngày nay không phải là thời đại của CNTB, mặc dù CNTB đang có sự điều chỉnh
để thích nghi với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhưng CNTB vẫn không thể
khắc phục được những mâu thuẫn, bất công xã hội thuộc về bản chất của chế độ
TBCN. Theo quy luật phát triển của lịch sử thì CNTB không thể không bị phủ
định. Đó là xu thế khách quan. CNTB là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch
sử, sớm hay muộn cũng phải được thay thế bằng một chế độ xã hội mới, phát triển
ở trình độ cao hơn, với giai đoạn đầu là CNXH. Với sự phát triển mạnh mẽ của
toàn cầu hóa, chính CNTB cũng đã và đang tạo ra những tiền đề vật chất - kỹ
thuật để chuyển sang CNXH. Hướng thứ hai, là thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua
chế độ TBCN dựa trên cơ sở củng cố chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân; dựa vào khối liên minh công - nông - trí thức để tổ chức và huy động
mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo lập cơ sở vật
chất - kỹ thuật cho CNXH. Con đường này hoàn toàn mới mẻ và không ít khó khăn,
nhưng giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao động. "Động lực chủ yếu để
phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công
nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá
nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần
kinh tế, của toàn xã hội....
Những thành tựu đã đạt được qua hơn 25 năm đổi
mới đã chứng tỏ: chọn con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là đúng hướng,
phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của nước ta,
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Bởi lẽ, chỉ có CNXH mới giải phóng
được nhân dân lao động khỏi mọi áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: quy luật của cách mạng Việt Nam là độc lập
dân tộc gắn liền với CNXH. Chỉ có đi lên CNXH mới giữ được độc lập, tự do cho
dân tộc, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Chỉ có CNXH mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ. Và trong thực tiễn, CNXH không những đã trở thành động lực tinh
thần, mà còn là sức mạnh vật chất to lớn góp phần đưa sự nghiệp cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở nước ta đến thắng lợi. Quá trình cách mạng do Đảng ta
lãnh đạo đã tạo những tiền đề cả vật chất và tinh thần để có thể "rút
ngắn" tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội. Vì thế, trong
sự lựa chọn con đường đi lên cho mình, dân tộc ta đã chọn con đường quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Đó là con đường phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả
về đặc điểm lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc tế.
Tại Đại hội VI, Đảng ta đã tự phê bình nghiêm
túc, rút ra những bài học sâu sắc, từ đó đề ra đường lối đổi mới. Đại hội VI là
mốc lịch sử rất quan trọng trên con đường xây dựng và phát triển Đảng ta và đất
nước ta.
Đại hội XI của Đảng ta đánh giá. Những thành tựu
đạt được trong hơn 25 năm đổi mới là vô cùng to lớn và có ý nghĩa lịch sử đó là
nhờ có đường lối cách mạng đúng đắn, được xây dựng trên cơ sở khoa học là chủ
nghĩa Mác- Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
Cộng sản, với sự nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, “đất
nước bước đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém
phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; sức
mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam
trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển
mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.
Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả từ phương
diện thực tiễn vận động của lịch sử nhân loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế
kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng, xây dựng đất nước
ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa là một tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại,
với đặc điểm lịch sử - cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng khát vọng
của nhân dân ta./.
____________
Câu 5: Phân tích quan điểm của Lênin : “Dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ
dân chủ tư sản nào tiến bộ nhất cũng dân chủ gấp triệu lần hơn” Liên hệ nền dân
chủ nước ta hiện nay?
I
THEO QUAN ĐIỂM CỦA LENIN – SO SÁNH DÂN CHỦ VÔ SẢN VÀ DÂN CHỦ TƯ SẢN:
Sự
khác nhau căn bản giữa hai nền dân chủ là;
A
Dân chủ thuộc về ai?
Dân
chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ của đại đa số nhân dân lao động, đại diện
và phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động, đại diện và phục vụ cho lợi ích
nhân dân lao động. Còn nền dân chủ tư sản, hay bất cứ nển dân chủ nào cũng diều
là nền dân chủ của thiểu số gcts hay các giai cấp khác nếu có trong XH, đại
diện và phục vụ cho giai cấp đó mà thôi.
Dân chủ tư sản phục vụ cho lợi
ích của thiểu số giai cấp tư sản và giai cấp này nắm mọi quyền hành trong tay
chi phối toàn xã hội. Đó là một nền dân chủ số ít, chuyên chính số đông. Dân chủ
giả hiệu nửa vời: đó là những lời hứa suông, lợi ích là một thứ bánh vẽ. Trái lại
và có sự đầy đủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, với tư cách là chế độ nhà nước
đc sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản,
dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo mọi quyền lực đều thuộc về tay nhân dân. Nhà
nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp nhân
dân lãnh đạo thông qua chính đảng của họ. Điều đó cho thấy, dân chủ xã hội chủ
nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính
dân tộc sâu sắc.
B
Bản chất giai cấp của dân chủ:
Dân chủ tư sản phục vụ cho lợi
ích của thiểu số giai cấp tư sản và giai cấp này nắm mọi quyền hành trong tay
chi phối toàn xã hội. Đó là một nền dân chủ số ít, chuyên chính số đông. Dân chủ
giả hiệu nửa vời: đó là những lời hứa suông, lợi ích là một thứ bánh vẽ. Trái lại
và có sự đầy đủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, với tư cách là chế độ nhà nước
đc sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản,
dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo mọi quyền lực đều thuộc về tay nhân dân. Nhà
nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp nhân
dân lãnh đạo thông qua chính đảng của họ. Điều đó cho thấy, dân chủ xã hội chủ
nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính
dân tộc sâu sắc.
C
Cơ sở khách quan quy định bản chất giai cấp dân chủ:
Cơ
sở khách quan quy định bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ
công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu, phù hợp với tính chất, trình độ
phát triển cao của lực lượng sản xuất, cho phép tạo nên sự bình đẳng về
quyền lực của đại đa số nhân dân lao động.
Còn
cơ sở khách quan quy định bản chất của chế độ dân chủ tư sản là chế độ tư hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất, thừa nhận chế độ người bóc lột người, tạo nên sự
bất bình đẳng, đối kháng sâu sắc về lợi ích trong xã hội .
D
Cơ sở chính trị - xã hội của chế độ dân chủ:
Cơ
sở chính trị - xã hội của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của giai
cấp công nhân, khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân,
đội ngũ trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân thông qua chính đảng cộng sản.
Còn
cơ sở chính trị - xã hội của giai cấp tư sản là bản chất của giai cấp tư sản.
E
Hình thức , cơ chế thực hiện dân chủ
Dân
chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện thông qua nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa
Còn
đối với dân chủ tư sản là đó là nhà nước pháp quyền tư sản.
F
Mục tiêu dân chủ:
Mục
tiêu dân chủ xã hội chủ nghĩa là hướng tới giải phóng xã hội, giải phóng con
người nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phù hợp với nguyện
vọng lợi ích chính đáng của nhân dân. Thực hiện một nền dân chủ thật sự trên
mọi mặt đời sống xã hội.
Còn
mục tiêu dân chủ tư sản là nhằm duy trì thiết lập, bảo vệ lợi ích , sự áp bức
bóc lột của giai cấp tư sản, sự bất công trong xã hội, sự bất bình đẳng giữa
các quốc gia, dân tộc, kìm hãm sự tiến bộ, văn minh của nhân loại. Thực hiện
một nền dân chủ giả hiệu, giả dối và cắt xén.
II
NỀN DÂN CHỦ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY:
Dân chủ luôn là vấn đề lớn được đề
cập trong văn kiện của các Đại hội Đảng ta. Suốt quá trình đổi mới đất nước từ
1986 đến nay, nhận thức về dân chủ của Đảng ta ngày càng hoàn thiện, đã trở
thành chủ trương, chính sách và đi vào thực tiễn cuộc sống. Thực hiện đường lối
đổi mới của Đảng, dân chủ XHCN ở nước ta ngày càng được phát triển, mở rộng,
trở thành động lực cho phát triển đất nước.
Trên
cơ sở lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm về dân chủ của
các Đại hội Đảng đã qua, thành tựu và những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh, các
văn kiện của Đại hội XI đã thể hiện một hệ thống những quan điểm lý luận về dân
chủ vừa có tính nguyên tắc chung, vừa có tính thực tiễn ở tầm chủ trương, chính
sách cụ thể, thể hiện trên một số khía cạnh cơ bản như sau:
Dân chủ với nghĩa dân là chủ, dân làm chủ là
bản chất của chế độ XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Dân chủ vừa là mục tiêu vừa
là động lực của sự phát triển xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ ra quan niệm mới
về CNXH, trong đó dân chủ có một vị trí xứng đáng hơn: “Xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Với
quan điểm đó, Đảng ta chủ trương xây dựng nền dân chủ như một nội dung quan
trọng của quá trình phát triển đất nước trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.
Trong
mối quan hệ giữa dân chủ và hệ thống chính trị, từ Đại hội VII (1991), Đảng ta
đã xác định đổi mới hệ thống chính trị là hướng tới xây dựng nền dân chủ XHCN,
là làm cho dân chủ của hệ thống chính trị phát triển hơn nữa.
Trong hệ thống chính trị, nhà nước
là một công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là thành phần cơ bản và
chủ yếu của cơ chế dân chủ gián tiếp. Các văn kiện của Đại hội XI đều đề cập
tới Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với bản chất và nguyên tắc tổ chức là một
nhà nước dân chủ : “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là
thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật;
tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
Như
vậy, để thể hiện dân chủ, Nhà nước phải hoàn thiện về mặt pháp lý cơ chế hoạt
động của chính bộ máy nhà nước. Đó là sự phân công, phối hợp, kiểm tra và giám
sát lẫn nhau giữa các cơ quan, các thể chế nhà nước như Quốc hội, Chính phủ,
Tòa án, Viện Kiểm sát. Cương lĩnh đã dùng khái niệm “kiểm soát” giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nhằm bảo đảm
dân chủ trong cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước. Đây là một điểm mới đáng ghi
nhận trong tư duy về tổ chức nhà nước của Đảng ta.
Nền
dân chủ XHCN ở Việt Nam
trong nhiều thập kỷ nay không tách rời với vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể nhân dân. Bên cạnh chức năng xã hội, các tổ chức đó còn có chức
năng chính trị, là các thể chế của nền dân chủ.
Thực tiễn đổi mới ở nước ta cũng
chứng minh, sự phát triển dân chủ phụ thuộc một phần quan trọng vào thực hành
dân chủ trong Đảng. Mỗi bước mở rộng dân chủ trong Đảng sẽ là nguồn động viên,
khích lệ đối với việc mở rộng dân chủ trong hệ thống chính trị và trong xã hội
nói chung. Thắng lợi của Đại hội XI của Đảng đã chứng minh tính đúng đắn của
việc phát huy dân chủ trong Đảng.
____________
Câu
6: Tại sao nói đổi mới hoạt động của Nhà nước ta hiện nay là một trong những giải
pháp cơ bản để bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân?
Đổi
mới hoạt động của nhà nước ta hiện nay là một trong những giải pháp cơ bản để
bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân vì :
I
MỤC TIÊU CỦA ĐỔI MỚI NHÀ NƯỚC:
Trong
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đại
hội VII xác định: “ là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa , bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân” Phân định rõ vai trò lãnh đạo
của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước; chức năng, nhiệm vụ của cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
II
YÊU CẦU ĐỔI MỚI CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ:
Yêu
cầu đổi mới của hệ thống chính trị là giữ vững ổn định để phát triển; tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát
huy quyền làm chủ của Nhân dân; bảo đảm đất nước phát triển đúng định hướng xã
hội chủ nghĩa.
III
NỘI DUNG CỦA ĐỔI MỚI NHÀ NƯỚC:
“
Phát huy dân chủ, tiếp tục và xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là
nội dung đổi mới quan trọng nhất hiện nay.
Nhiệm
vụ cụ thể là :
+
Phát huy dân chủ, xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ , Đảng viên và
công chức phải thật sự là công bộc của nhân dân.
+
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
lập pháp, hành pháp và tư pháp.
+
Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí đây là nhiệm vụ
hàng đầu của Nhà nước.
____________
Câu
7. Vì sao trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải thực hiện liên
minh công – nông – trí thức? Trình bày những nội dung cơ bản của liên minh công
– nông -trí ở nước ta hiện nay?
1.
Tính tất yếu phải thực hiện liên minh công – nông – trí thức
Liên minh giữa Giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là hình thức hợp tác đặc biệt
trong công cuộc đấu tranh nhằm lật đổ chế độ Tư bản chủ nghĩa xây dựng thành
công Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa cộng sản.
Tính tất yếu được thể hiện:
Tính tất yếu được thể hiện:
Liên minh CNT trong thời kỳ
quá độ lên CNXH là sự đoàn kết, hợp lực, hợp tác, liên kết…giữa gc công nhân với
gc nông dân và đội ngũ trí thức nhằm thực hiện nhửng nhiệm vụ, giải quyết các vấn
đề về lợi ích không chỉ cho một lực lượng mà còn cho cả các lực lượng tham gia,
đồng thời góp phần vào sự nghiệp chung xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Liên minh CNT trong thời kỳ
quá độ lên CNXH mang tính tất yếu từ điều kiện và đòi hỏi khách quan của chính
giai đoạn lịch sử đặc biệt này.
Công nhân, nông dân đội ngũ
trí thức điều là giai tầng của những người lao động có nhu cầu, khác vọng cơ bản
thống nhất cho nên công nhân, nông dân trí tức dễ đồng cảm, đ iđến đoàn kết, hợp
tác vì sự nghiệp phát triển nói chung và lợi ích của mình nói riêng.
Từ thực tiễn của công cuộc
xây dựng CNXH càng thấy rõ tầm quan trọng đặc biệt của liên minh CNT . V.Lê nin
từng nói “ Chuên chính vô sả là một hình thức đặc biệt của liên minh giữa gcvs,
đội tiền phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động
không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân trí thức).
Công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH
là công việc hoàn toàn mới, đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, lâu dài, diễn ra
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì sự nghiệp giải phóng không chỉ cho
giai cấp công nhân, mà cho toàn xã hội. Trong cơ cấu xã hội của thời kỳ quá độ
còn tồn tại nhiều giai cấp tầng lớp, trong đó nông dân còn chiếm đa số, tầng lớp
trí thức có xu hướng ngày càng phát triển. Mỗi giai cấp tầng lớp còn có những đặc
điểm, vị trí kinh tế - xã hội, vai trò khác nhau.
Để xây dựng
thành công xã hội mới, XH XHCN, tiến lên CNCS thì giai cấp công nhân phải coi
việc xây dựng liên minh công – nông - trí thức là vấn đề có tính chiến lược; nhất
là trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH và đặc biệt hơn đối với các nước tiền tư bản,
bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH
2. Những nội dung cơ bản của liên minh công –
nông -trí ở nước ta hiện nay?
Liên
minh công – nông – trí thức ở Việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, tạo động lực to lớn cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa đi đến thắng lợi.
Nguyên
tắc cơ bản chung nhất của liên minh công – nông trí là “ kết hợp đúng đắn các
lợi ích” trên các l ĩnh vực các nội dung của liên minh. Do
đó việc liên minh CNT cần phải đảm bảo các yếu tố sau mới đảm bảo thắng lợi:
Một là: mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản
nhất của GCCN, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và của cả dân tộc ta là: Độc
lập dân tộc và CNXH. Nhưng để đạt được mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản đó
khi thực hiện liên minh lại không thể dung hòa lập trường chính trị của 3 giai
tầng mà phải trên lập trường tư tưởng chính trị của GCCN. Bởi vì, chỉ có phấn đấu
thực hiện mục tiêu lý tưởng của
GCCN thì mới thực hiện được đồng thời cả nhu cầu lợi ích chính trị cơ bản của
công nhân, nông dân, trí thức và của dân tộc là lập dân tộc và CNXH.
Hai là: Khối liên minh chiến lược này phải
đo Đảng của GCCN lãnh đạo thì mới có đường lối chủ trương đúng đắn để thực hiện
liên minh, thực hiện quá trình giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng CNXH thành
công. Do đó, Đảng Cộng sản từ trung ương đến cơ sở phải vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức để lãnh đạo khối liên minh và lãnh đạo xã hội là vấn đề có
ý nghĩa như 1 nguyên tắc về chính trị của liên minh. Trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, liên minh công- nông- trí thức ở nước ta còn làm nòng cốt cho liên minh
chính trị rộng lớn nhất là Mặt trận Tổ quốc, là cơ sở để xây dựng nền dân chủ
XHCN, đồng thời là nền tảng cho nhà nước XHCN ngày càng được củng cố lớn mạnh để
bảo vệ tổ chức và xây dựng CNXH.
Ba là: nội dung chính trị của liên minh
không tách rời nội dung, phương thức đổi mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả
nước. Dưới góc độ của liên minh, cần cụ thể hóa việc đổi mới về nội dung tổ chức
và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị trong GCCN, nông dân và trí
thức. Nội dung chính trị cấp thiết nhất hiện nay là triển khai thực hiện “Quy
chế dân chủ ở cơ sở”, nhất là ở nông thôn.
2. Nội dung kinh tế của liên minh:
Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản, quyết
định nhất, là cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc của liên minh trong thời kỳ quá
độ. Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta trong thời kỳ quá độ được cụ thể
hóa ở những điểm sau đây:
- Phải xác định đúng thực trạng, tiềm
năng kinh tế của cả nước và của sự hợp tác quốc tế, từ đó mà xác định đúng cơ cấu
kinh tế gắn liền với những nhu cầu kinh tế của công nhân, nông dân, trí thức và
của toàn xã hội. Đảng ta xác định cơ cấu kinh tế chung của nước ta là “Công-
nông nghiệp- dịch vụ”. Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta còn xác định “Từng bước
phát triển kinh tế tri thức, từ đó ma tăng cường liên minh công- nông- trí thức”
- Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế
phát triển dưới nhiều hình thức hợp tác, liên kết, giao lưu… trong sản xuất,
lưu thông phân phối giữa công nhân, nông dân, trí thức; giữa các lĩnh vực công
nghiệp, nông nghiệp, khoa học công nghệ và các lĩnh vực khác; giữa các địa bàn,
vùng, miền dân cư trong cả nước, giữa nước ta và các nước khác.
- Từng bước hình thành QHSX XHCN trong
quá trình thực hiện liên minh. Việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần phải được thể hiện qua việc đa dạng và đổi mới các hình thức hợp tác kinh
tế, hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, trang trại, dịch vụ ở nông thôn. Trong quá
trình hình thành QHSX phải trên cơ sở công hữu hóa các TLSX chủ yếu, kinh tế
nhà nước vươn lên giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền
kinh tế cả nước, theo định hướng XHCN.
- Nội dung kinh tế của liên minh ở nước
ta còn thể hiện ở vai trò của Nhà nước. Nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng
trong việc thực hiện liên minh. Vai trò của Nhà nước đối với nông dân thể hiện
qua chính sách khuyến nông, các tổ chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế Nhà nước,
Nhà nước có những chính sách hợp lý thể hiện quan hệ của mình với nông dân, tạo
điều kiện cho liên minh phát triển. Nông nghiệp và nông thôn không chỉ là một
ngành kinh tế, một khu vực kinh tế mà còn là một lĩnh vực mang ý nghĩa sinh
thái xã hội.
Đối với tri thức, Nhà nước cần phải đổi
mới và hoàn chỉnh các luật, chính sách có liên quan trực tiếp đến sở hữu trí tuệ
như chính sách phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, về bản
quyền tác giả, về báo chí, xuất bản, về văn học nghệ thuật… Hướng các hoạt động
của trí thức vào việc phục vụ công- nông, gắn với cơ sở sản xuất và đời sống
toàn xã hội.
3. Nội dung văn hóa, xã hội của liên
minh:
Liên minh về văn hóa, xã hội thể hiện
qua các nội dung cụ thể sau đây:
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến
bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi
trường sinh thái.
- Nội dung xã hội mang ý nghĩa kinh tế
và chính trị cấp thiết trước mắt của liên minh là tạo nhiều việc làm có hiệu quả,
đồng thời kết hợp các giải pháp cứu trợ, hỗ trợ để xóa đói, giảm nghèo cho công
nhân, nông dân và trí thức.
- Đổi mới và thực hiện tốt các chính
sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ xã hội trong công nhân, nông dân, trí thức
cũng là nội dung xã hội cần thiết, đồng thời còn mang ý nghĩa giáo dục truyền
thống, đạo lý, lối sống… cho toàn xã hội và thế hệ mai sau.
- Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản,
lâu dài. Trước mắt tập trung vào việc củng cố thành tựu xóa mù chữ, trước hết
là đối với nông dân, nhất là ở miền núi. Nâng cao kiến thức về khoa học công
nghệ, về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, các
hủ tục lạc hậu, các biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, quan liêu. Giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
- Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp,
khoa học công nghệ với quy hoạch phát triển nông thôn, đô thị hóa, công nghiệp
hóa nông thôn với kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi và hiện đại.Xây dựng các
cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, các công trình phúc lợi công cộng 1
cách tương xứng, hợp lý ở các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu,
vùng xa, vùng khó khăn.
Có như vậy, nội dung liên minh mới toàn
diện và đạt mục tiêu của định hướng XHCN và mới làm cho công- nông- trí thức
cũng như các vùng, miền, dân tộc xích lại gần nhau trên thực tế.
. ____________
Câu 8. Hãy nêu cơ sở lý luận và
thực tiễn của chính sách dân tộc của Đảng ta và làm rõ nội dung chính sách dân
tộc của Đảng ta hiện nay?
Trong suốt quá trình xây dựng,
trưởng thành và phát triển lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn xác định vấn đề dân
tộc, công tác dân tộc và đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong
cách mạng nước ta. Dựa trên những quan điểm của CN Mác Lên nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc Đảng ta đã đề ra các chủ trương, chính sách dân tộc
với những nội dung cơ bản là; bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đở lẫn nhau
cùng phát triển. Vì Đại hội Đảng khoá XI “Đảng xác định, đoàn kết các dân
tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của đất nước ta. Các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”
Trước tiên chúng ta tìm hiểu
thuật ngữ dân tộc là gì? Dân tộc là chính là sản phẩm của lịch sử, có quá trình
hình thành và phát triển lâu dài dựa trên nền kinh tế nhất định do điều kiện
biến đổi của PTSX là điều kiện tác động đến cộng đồng người vậy Dân tộc
chính là một cộng đồng người ổn định, được hình thành và phát triển trong lịch
sử, sống trên cùng một lãnh thổ nhất định, có chung một mối quan hệ về KT, ngôn
ngữ, , tâm lý, nền văn hóa
Đặc trưng chung nhất của dân tộc là: Có chung một phương thức sinh hoạt KT. Đây
là đặc trưng quan trọng nhất, cơ bản nhất, là cơ sở nền tảng cho sự vững chắc
của cộng đồng dân tộc. Có chung một vùng lãnh thổ nhất định, trên lãnh thổ đó
các thành viên gắn bó với nhau, cùng nhau lao động để tồn tại và phát triển. Có
tiếng nói chung làm công cụ giao tiếp giữa các thành viên trong các lĩnh vực
KT, VH, tình cảm … Có tâm lý riêng tạo nên bản sắc của nền VH dân tộc. Các dân
tộc trên thế giới được hình thành trong những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau
nhưng vấn đề cơ bản nó cần hội đủ hoặc gần đủ các đặc trưng nêu trên thì dân
tộc mới được hình thành. Tính kết dính của cộng đồng dân tộc được tạo bởi tính
cộng đồng KT, XH, chính trị, tư tưởng và tộc người. Mỗi nhân tố đóng một vai
trò xác định, nhưng không phát huy một cách riêng rẽ mà liên kết trong một kết
cấu năng động, làm nổi bật dấu hiệu XH - tộc người của cộng đồng dân tộc.
Khi nghiên cứu các vần đề
DT và phong trào DT trong điều kiện CNTB, Lênin đã phát hiện ra xu hướng khách
quan: thứ nhất, do sự thức tỉnh, trưởng thành của ý thức DT mà các cộng đồng dân
cư muốn tách ra để lập các cộng đồng DT độc lập. Thứ hai, là liên hiệp giữa các dân tộc lại với nhau do sự phát triển của
LLSX, của khoa học và công nghệ; tạo nên sức hút các dân tộc vào các liên minh
được hình thành trên những cơ sở lợi ích nhất định và nhằm tập trung vào việc
giải quyết những Vấn đề chung của nhân loại. như: chống ô nhiễm môi trường,
sinh thái, dịch bệnh… có nguy cơ lan rộng trên toàn thế giới. Lợi ích toàn cầu
có tác động sâu xa gắn bó loài người trong cùng quá trình vận động thống nhất
các dân tộc, Quốc gia trên thế giới còn đang ở trình độ phát triển khác nhau và
đang cần sự hổ trợ nhau cùng tiến bộ.
Trong CNTB do mục tiêu của mọi chính sách trước hết là phục vụ cho lợi ích của
giai cấp tư sản, do vậy mà hai xu hướng khách quan trên không được giải quyết.
Vì vậy, Lênin cho rằng một cương lĩnh DT đúng đắn phải phù hợp với mối quan hệ
biện chứng giữa vấn đề DT và vấn đề giai cấp. Đồng thời tạo ra môi trường cho
sự vận động của hai xu hướng khách quan trong một tiến trình thống nhất. Đặc
biệt Lênin đã nêu ra Cương lĩnh về vấn đề DT gồm có ba nội dung chính:
Thứ nhất, các DT có
quyền bình đẳng. Thực chất là xóa bỏ sự nô dịch của DT này
với DT khác trên cơ sở đó dần dần xóa bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển
của các DT trên mọi lĩnh vực: KT, CT, VH… Điều đó cần phải được ghi nhận và bảo
đảm bằng pháp luật Nhà nước và điều quan trọng hơn là phải được thực hiện trong
đời sống thực tế.
Thứ hai, quyền tự
quyết đó là quyền tự quyết định lấy vận mệnh của DT
mình, quyền quyết định con đường phát triển và chế độ chính trị, XH của DT mình
mà không bị lệ thuộc hoặc bị ép buộc bởi ai khác. Để quyền tự quyết được thực
hiện đúng đắn phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân để xem xét. Lên
án sự lợi dụng quyền tự quyết để xâm lược hoặc can thiệp vũ trang vào nước
khác, chống tư tưởng DT lớn hoặc tư tưởng DT hẹp hòi ích kỷ.
Thứ ba, sự đoàn
kết, thống nhất giai cấp công nhân giữa các DT trong từng quốc gia cũng như trên toàn thế giới; chỉ có đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân mới thực hiện được quyền bình đẳng và tự
quyết đúng đắn, khắc phục được thái độ kỳ thị, lòng thù hằn dân tộc từ đó đoàn
kết được nhân dân lao động các dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc,
dân chủ và CNXH.Nội dung này đóng vai trò liên kềt của 3 nội dung của cương
lĩnh thành một chỉnh thể. ĐK GCCN các dân tộc là sự thể hiện thực tế tinh thần
yêu nước mà thời đại ngày nay đã trở thành sức mạnh cực kỳ to lớn, phù hợp với
tinh thần quốc tế chân chính đang lên tiến kêu gọi các dân tộc, quốc gia xích
lại gần nhau.
Nước ta là một nước có bề dày
lịch sử trên dải đất VN có 54 các thành phần DT, trong đó tộc người Kinh chiếm
gần 87% dân số và 53 dân tộc còn lại chiếm trên 13% dân số.
Về VH, XH: con người VN có truyền thống và tinh thần CM, tinh thần đoàn kết DT
chống ngoại xâm, có tinh thần khắc phục khó khăn hoàn cảnh để vươn lên, có tinh
thần khắc phục khó khăn hoàn cảnh để vươn lên, có tinh thần yêu nước, yêu CNXH.
Tính chất: do sống xen kẽ, dan xen giữa các dân tộc người tạo nên một sự đa
dạng, phong phú trong đời sống phong tục tập quán, truyền thống và bản sắc VH
DT. Các tộc người VN đều có tiếng nói riêng và có chung ngôn ngữ thống nhất. Đó
là lấy tiếng Việt - Kinh làm phương tiện giao tiếp chung. Bên cạnh có những tộc
người có trình độ phát triển cao về KT, chính trị, VH, XH thì còn nhiều tộc
người còn ở trình độ dân trí quá thấp.
Truyền thống lịch sử lâu đời của DT ta đã chỉ ra rằng trong toàn bộ lịch sử của
mình, các DT trên dãi đất VN đã chung sống hòa bình và phát triển, vừa có bản
sắc riêng vừa có sự giao lưu chung, lịch sử cũng cho thấy không có sự mâu thuẫn
sâu sắc giữa các dân tộc người. Đặc biệt khi có giặc ngoại xâm thì các tộc
người VN đã sát cánh cùng nhau chống giặc.
Chính vì vậy mà từ khi ra đời, Đảng ta đã coi vấn đề DT và đại đoàn kết DT là
vấn đề quan trọng có tính chất chiến lược, là yếu tố phát huy sức mạnh tổng
hợp, khai thác mọi tiềm năng của các thành phần DT trong sự nghiệp CM.
Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về chính sách dân tộc là nhất quán theo nguyên tắc “Các dân tộc bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ nhau cùng phát triển”.
1. Bình đẳng giữa các dân tộc trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội
- Bình đẳng giữa các dân tộc là nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc.
Các dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp
đều ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống
xã hội. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc được bảo đảm bằng pháp luật.
- Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, trước hết là quyền bình đẳng về chính
trị, chống mọi biểu hiện chia rẽ kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực
đoan, tự ty dân tộc,… Quyền bình đẳng về kinh tế đảm bảo sự bình đẳng trong
quan hệ lợi ích giữa các dân tộc. Nhà nước có trách nhiệm giúp các dân tộc có
kinh tế chậm phát triển để cùng đạt trình độ phát triển chung với các dân tộc
khác trong cả nước. Bình đẳng về văn hoá, xã hội đảm bảo cho việc giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc, làm phong phú, đa dạng nền văn hoá Việt
Nam.
2. Đoàn kết các
dân tộc
- Đoàn kết dân tộc được xác định là một nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước ta. Đoàn kết dân tộc được quán triệt xuyên suốt trong
các giai đoạn cách mạng Việt Nam. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các dân
tộc đang phát huy truyền thống đoàn kết tốt đẹp, cùng nhau xây dựng đất nước với
mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và tiến bộ.
- Tất cả các dân tộc trên đất nước Việt Nam đều phải có trách nhiệm chăm lo
vun đắp, củng cố, tăng cường khối đoàn kết dân tộc theo lời dậy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh:
“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
3. Tương trợ
giúp đỡ nhau cùng phát triển
- Do lịch sử để lại, hiện nay giữa các dân tộc ở nước ta vẫn còn tình trạng
phát triển không đều.Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển là một tất yếu
khách quan trong một quốc gia đa dân tộc. Đảng và Nhà nước ta đã coi trọng
tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc là một nguyên tắc cơ bản
trong chính sách dân tộc trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế- xã hội cao hơn có trách nhiệm
giúp đỡ các dân tộc có điều kiện phát triển kinh tế-xã hội khó khăn hơn. Tương
trợ giúp đỡ lẫn nhau không phải chỉ giúp đỡ một chiều, ngược lại chính sự phát
triển của dân tộc này là điều kiện để cho dân tộc khác càng phát triển.
- Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển thể hiện trên tất cả các lĩnh
vực: Chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau để không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc, nhằm thực
hiện đầy đủ quyền bình đẳng và củng cố khối đoàn kết dân tộc.
III. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TRONG NHỮNG NĂM QUA
1. Tóm tắt những thành tựu đạt được
- Những năm vừa qua, nhất là những năm trong thời kỳ đổi mới, thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức
to lớn trong tất cả lĩnh vực đời sống xã hội.
- Quyền bình đẳng giữa các dân tộc đã được thực hiện đầy đủ trong mọi lĩnh
vực hoạt động xã hội. Đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố.
- Kinh tế vùng dân tộc và miền núi có bước phát triển đáng kể, tốc độ tăng
trưởng kinh tế hàng năm cao (trung bình 8% năm). Nền kinh tế nhiều thành phần
bước đầu hình thành và phát triển, chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá. Đã
hình thành nhiều vùng chuyên canh cây trồng, sản xuất với số lượng hàng hoá lớn
như cà phê, chè, tiêu, điều…
- Kết cấu hạ tầng vùng dân tộc và miền núi đã được cải thiện rõ rệt, góp phần
đắc lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội và nâng cao đời sống của
đồng bào các dân tộc vùng dân tộc và miền núi.
- Công tác xoá đói giảm nghèo đạt được kết quả to lớn. Hàng năm tỷ lệ đói
nghèo ở vùng dân tộc và miền núi giảm từ 3-4%. Đời sống của đồng bào các dân tộc
được cải thiện đáng kể.
- Mặt bằng dân trí được nâng cao. Vùng dân tộc và miền núi đã hoàn thành phổ
cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ. Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú
được hình thành và phát triển từ Trung ương đến các huyện vùng dân tộc và miền
núi, tạo nguồn đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
- Đời sống văn hoá của các đồng bào các dân tộc được nâng cao một bước, văn
hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số được tôn trọng, bảo tồn và phát huy.
Hệ thống phát thanh truyền hình ở vùng dân tộc và miền núi không ngừng phát triển.
- Các loại dịch bệnh cơ bản được ngăn chặn. Việc khám chữa bệnh cho người
nghèo vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ngày càng được quan tâm. Nhà nước
đã ban hành nhiều chính sách ưu tiên chăm lo sức khoẻ đồng bào các dân tộc, nhất
là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa biên giới.
- Hệ thống chính trị vùng dân tộc và miền núi được tăng cường và củng cố,
nhất là ở cấp cơ sở. Công tác phát triển Đảng trong vùng đồng bào dân tộc được
chú trọng.
Tình hình chính trị, trật tự xã hội ở vùng dân tộc và miền núi cơ bản ổn định.
Quốc phòng, an ninh được giữ vững.
____________
Câu 9. Hãy nêu cơ sở lý luận và thực tiễn của
chính sách tôn giáo của Đảng ta và làm rõ nội dung chính sách tôn giáo của Đảng
ta hiện nay?
I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG TA:
1Cơ sở lý luận:
1.1Quan điểm của
Mác và Lenin về tôn giáo:
Tôn giáo là một
hiện tượng xã hội phức tạp liên quan đến tinh thần của một bộ phận quần chúng
nhân dân trong các xã hội.
Nội dung cơ bản
trong quan điểm của chủ nghĩa Mác Lenin : bản chất của tôn giáo là một bộ phận
của hình thái ý thức xã hội, phản ánh một cách hư ảo, lệch lạc hiện thực khách
quan . Sự phản ánh của tôn giáo luôn cần đến biểu tượng thần linh, các lực
lượng siêu thiêng nhiên nhằm thiên hóa sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội.
Chính con người sinh ra tôn giáo.
Tôn giáo là một hình
thái ý thức - xã hội ra đời và biến đổi theo sự biến động của điều kiện kinh tế
- xã hội. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn tồn tại và có
những biến đổi nhất định.
Các tôn giáo vẫn còn tồn tại lâu dài trong các nước xã hội
chủ nghĩa là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Nguyên nhân nhận thức: Trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội và trong chế độ xã hội chủ nghĩa trình độ dân trí của
nhân dân chưa thật cao; nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học
chưa giải thích được.
- Nguyên nhân tâm lý: Tôn
giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài người, ăn sâu vào trong tiềm thức
của nhiều người dân.
Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, thì
ý thức xã hội bảo thủ hơn so với tồn tại xã hội, trong đó tôn giáo lại là một
trong những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Tín ngưỡng, tôn giáo đã in
sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của
một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn
hoá tinh thần không thể thiếu của cuộc sống. Cho nên, dù có thể có những biến
đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội... thì tín ngưỡng, tôn giáo cũng
không thay đổi ngay theo tiến độ của những biến đổi kinh tế, xã hội mà nó phản
ánh.
- Nguyên nhân chính trị - xã hội: Trong các nguyên tắc tôn giáo có những điểm còn phù
hợp với chủ nghĩa xã hội, với đường lối chính sách của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Đó là mặt giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo, đáp ứng được nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân. Dưới chủ nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có khả
năng tự biến đổi để thích nghi theo xu hướng "đồng hành với dân tộc"
sống "tốt đời, đẹp đạo", "sống phúc âm giữa lòng dân
tộc"...
Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình
thức vô cùng phức tạp; trong đó, các thế lực chính trị vẫn lợi dụng tôn giáo để
phục vụ cho mưu đồ chính trị của mình. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ,
xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo loạn, lật đổ... còn xảy ra ở
nhiều nơi. Nỗi lo sợ về chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo... cùng với những mối
đe dọa khác là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.
- Nguyên nhân kinh tế: Trong
chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ còn nhiều thành phần
kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với những lợi ích khác nhau của các
giai tầng xã hội, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội...
vẫn là một thực tế; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân chưa cao, thì con
người càng chịu tác động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều đó
đã làm cho con người có tâm lý thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng
siêu nhiên.
- Nguyên nhân về văn hoá: Sinh hoạt tín
ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở một mức độ nào đó nhu cầu văn hoá tinh
thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách,
lối sống. Vì vậy, việc kế thừa, bảo tồn và phát huy văn hoá (có chọn lọc) của
nhân loại, trong đó có đạo đức tôn giáo là cần thiết. Mặt khác, tín ngưỡng, tôn
giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư, và do đó sự
tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như
một hiện tượng xã hội khách quan.
Như vậy tôn giáo vẫn tồn tại trong xã hội xã hội chủ
nghĩa xét cho cùng nhằm giải quyết những vấn đề trong xã hội.
Cũng như các nước trên thế giới vấn đề tôn giáo vẫn tồn tại trong xã hội
Việt nam là một yếu tố khách quan.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo
và đa dân tộc. Giáo hội các tôn giáo khi được Nhà nước công nhận tư cách pháp
nhân đều được chính quyền các cấp quan tâm và tạo thuận lợi để hoạt động tôn
giáo bình thường trong khuôn khổ luật pháp.
Tình hình tôn giáo và hoạt động tôn
giáo ở Việt Nam thể hiện những điểm sau đây:
- Thực trạng tín đồ các tôn giáo:
Đến năm 2007, tổng tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam có hơn 20 triệu, của 6 tôn giáo
lớn. Trong đó: Phật giáo gần 10 triệu; Công giáo 5,9 triệu; Tin Lành gần 1
triệu; Hồi giáo 67 nghìn; Cao Đài 3,2 triệu Trong những năm qua, nhờ đổi mới
về nhận thức và thực hiện đúng đắn chính sách tôn giáo mà năng lực, sức sáng
tạo của hàng chục triệu đồng bào có đạo đã được phát huy.
Đảng, Nhà nước
Việt Nam luôn xác định công tác tôn giáo, dân tộc là vấn đề chiến
lược, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc là chính sách nhất quán xuyên
suốt của Đảng
Đại hội XI, vấn đề tôn giáo được đề
cập ở hai văn kiện quan trọng, đó là: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển 2011).
Cương lĩnh ghi: “Tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành
động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm tổn
hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”
II NỘI DUNG CHÍNH
SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG TA HIỆN NAY:
1Quan điểm của Chủ
Tịch Hồ Chí Minh, của ĐCS VN và Chính Sách của Nhà Nước:
1.1Quan điểm của CT
HCM:
Vận dụng và phát
triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin về tôn giáo và giải
quyết vấn đề tôn giáo trong điều kiện cụ thể của VN, CT HCM đã nêu nhiều quan
điểm thể hiện thái độ, cách giải quyết vấn đề tôn giáo ở VN.
Phải có quan niện
đúng về tôn giáo . CT HCM đã coi tôn giáo như là một thành tố của văn hóa.
Người viết “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn , ở
và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa”
Một số quan điểm
của CT HCM về tôn giáo:
+ Giải quyết vấn đề
tôn giáo phải nhằm tăng cường đoàn kết lương, giáo, phát huy sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc.( SGK _ 126).
+ Phải thực sự tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. ( SGK – 127).
+ Phải coi trọng
việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào, lấy công tác vận động
quần chúng làm trọng tâm.
1.2 Quan điểm của
Đảng và NN ta:
Văn kiện đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng công sản VN đã chỉ rõ:
+ Đồng bào các tôn
giáo là bộ phận quan tọng của khối đại đoàn kết dân tộc.
+ Thực hiện nhất
quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không
theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp
luật.
+ Đoàn kết đồng bào
theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn
giáo.
+ Phát huy những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo.
+ Động viên, giúp
đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống” tốt đời, đẹp đạo “.
+ Các tổ chức tôn
giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ.
+ thực hiện tốt các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa
của đồng bào các tôn giáo.
+ Tăng cường công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo.
+ Đấu tranh ngăn
chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước, vi phạp quyền tự do tôn giáo của
công dân. ( SGK – 130 )
1.2 Nghị quyết lần
thứ bảy BCH TW Khóa IX đã xác định nhiệm vụ;
+ Thực hiện có hiệu
quả chủ trương , chính sách và các chương trình phát triển kinh tế xã hội, nâng
cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, trong đó có đồng bào của các tôn giáo
.
+ Tạo điều kiện cho
các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng chính sách và pháp luật của nhà
nước.
+ Đẩy mạnh phong
trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt đời đẹp đạo” trong quần chúng
tín đồ, chức sắc , nhà tu hành cơ sở. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước.
+Phát huy tinh thần
yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và phối hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu
của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để phá hoại đoàn kết
dân tộc, chống đối chế độ.
+ Hướng dẫn các tôn
giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và
Nhà Nước. Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về chính sách tôn giáo của Đảng và
Nhà Nước; đấu tranh làm thất bại những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, vu
khống của các thế lực thù địch bên ngoài đối với tình hính tôn giáo và công tác
tôn giáo ở nước ta.
+ Tổng kết và thực
hiện các chỉ thị , nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo. Tăng cường nghiên
cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây
dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách trước mắt và lâu dài đối với tôn
giáo.
Trong điều kiện
hiện nay, cần phải tiếp tục thực hiện đồng bộ bốn nhóm giải pháp đối với công
tác tôn giáo:
+ Tập trung
nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và
toàn xã hội về vấn đề tôn giáo.
+ Tăng cường công
tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị cơ sở.
+ Tăng cường quản
lý Nhà nước về vấn đề tôn giáo.
+ Tăng cường công
tác tổ chức cán, bộ làm công tác tôn giáo.
____________
Câu 10. Nhân tố con người là gì? Hãy làm rõ vai
trò nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện
nay ?
I NHÂN TỐ CON
NGƯỜI
1 Khái niệm về con
người:
Từ xưa đến nay có
rất nhiều quan niệm, trào lưu tư tưởng, triết học khác nhau về con người và bản
chất con người nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác – Lenin mới đưa ra quan niệm đúng đắn
và khoa học.: “ Con người là một thực thể tự nhiên, một cấu trúc sinh học, đồng
thời là một thực thể xã hội, mang bản chất xã hội.”
Quan điểm về con
người của chủ nghĩa Mác – Lenin được thể hiện:
+ Hai mặt cơ bản
nhất của con người là mặt tự nhiên và mặt xã hội. Hai mặt đó thống nhất biện
chứng và tác động qua lại lẫn nhau. Chịu sự tác động của các mặt xã hội, mặt tự
nhiên của con người được nâng lên làm cho con người khác hẳn động vật. Chính vì
vậy mà Các Mác quan niệm : con người là một thực thể tự nhiên đặc biệt, một
thực thể tự nhiên đã được nhân loại hóa.
+ Bản chất tự nhiên
của con người là gắn bó với đồng loại không thể tách rời, đồng thời là những cá
nhân với ý nghĩa đầy đủ.
+ Trong xã hội có
giai cấp, con ngưới bao giờ cũng mang tính giai cấp và mang dấu ấn thời đại.
Ben cạnh tính chất cơ bản đó , con ngưới còn có tính chất dân tộc và tính nhân
loại. Song với bản chất vốn có của mình, con người luôn hướng tới những giá trị
tốt đẹp của nhân loại
Trên tất cả các ý
nghĩa đó C Mác đã khái quát : “ Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”.
Chỉ có CM XHCN mới
có đủ điều kiện để hướng con người phát triển và nhân lên giá trị, bản chất tốt
đẹp của mình.
2 Khái niệm nhân tố
con người:
Là bản thân con
người được xem xét về vai trò và tác động của nó đối với tiến trình phát
triển của lịch sử.
Nhân tố con người
bao hàm những mặt sau :
+ Là một nhân tố xã
hội để phân biệt nó với các nhân tố khác trong đời sống xã hội ( như nhân tố
kinh tế, kỹ thuật , tài nguyên….) được huy động vào hóa trình hoạt động thực
tiễn để đem lại sự phát triển và tiến bộ xã hội.
+ Là những tiêu chí
về số lượng và chất lượng của dân số và lao động. Nó nói lên khả năng của con
người, của một cộng đồng người trong một hoàn cảnh xã hội - lịch sử nhất định
cần phải được khai thác và phát huy trong quá trình cải tạo và xây dựng xã hội,
mà trước hết và chủ yếu là số lượng và chất lượng lao động của con người.
+ NTCN bao gồm một
chỉnh thể các giai cấp, các tầng lớp xả hội, các dân tộc, các tôn giáo, các
giới, các lứa tuổi…khác nhau, nhưng liên kết chặt chẽ với nhau nhằm tạo
ra sức mạnh tổng hợp của cộng đồng để thúc đẩy tiến bộ xã hội.
+ NTCN là những
tiêu chí về nhân cách, bao gồm toàn bộ những yếu tố như phẩm chất, năng lực,
đạo đức, tư tưởng, tính cảm, chức năng xã hội của con người….có thể khai thác,
phát huy trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội. Trong cấu trúc nhân
cách, đạo đức và năng lực là hai thành phần cốt yếu để tạo nên nhân cách của
con người. Trong đó, đạo đức được xem là cái gốc có giá trị định hướng
cho hoạt động của con người hướng tới những giá trị nhân đạo, tiến bộ và phát
triển bền vững. Còn năng lực, đặt biệt là năng lực sáng tạo là điều kiện và khả
năng hiện thực để con người vươn lên chinh phục những đỉnh cao mới thúc đẩy xã
hội phát triển.
Tóm lại: NTCN là
một phạm trù triết học xã hội dùng để nhấn mạnh mặt hoạt đông của con người với
tư cách là chủ thể của toàn bộ tiến trình lịch sử; đồng thời, bao gồm cả những
phẩm chất, nhân cách, tìm năng và năng lực sáng tạo của con người được huy động
vào quá trình cải tạo tư nhiên, cải tạo xã hội vì lợi ích của xã hội, nhân loại
và của chính bản than con người.
II VAI TRÒ CỦA NHÂN
TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
+ Vai trò của nhân
tố con người quyết định đối với sự phát triển của lịch sử xã hội, chủ nghĩa Mac
– Lenin đã khẳng định : “ con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, vừa
là chủ thể tích cực cải biến tự nhiên và xã hội. Con người là yếu tố quan trọng
nhất trong lực lượng sản xuất; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; quần
chúng nhân nhân là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử, của xã hội.
Theo quy luật của
tự nhiên, con người trước hết là một sinh vật, do đó nó phải lệ thuộc vào tự
nhiên một cách tương đối và phải có những hoạt động để thích nghi với giới tự
nhiên. Song con người không chỉ biết lợi dụng giới tự nhiên, mà còn tìm cách
chinh phục, cải tạo tự nhiên và sáng tạo ra một tư nhiên thứ hai như là tác
phẩm nghệ thuật của chính mình. Điều đó được thực hiện không chỉ bằng bàn tay
và sức lực, mà chủ yếu bằng trí tuệ sáng tạo của con người.
+ CT HCM đã sớm
nhận thức được vai trò to lớn của nhân tố con người và khẳng định sự cần thiết
phải chăm lo bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người trong tiến trình cách mạng,
xem đó là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự thắng lợi của cách mạng VN. Người
nói “ Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”; “ Muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”
Con người XHCN theo
quan điểm CTHCM là những người có ý thức, có trình độ và năng lực làm chủ; có
đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có kiến thức KH _ KT ; có tinh
thần sáng tạo và thường xuyên có ý thức nâng cao trình độ tri thức về mọi mặt,
ra sức rèn luyện sức khỏe, đảm bảo phát triển toàn diện cá nhân; đó là con
người lao động có ý thức tổ chức kỷ luật cao, biết đánh giá chất lượng lao động
vả hiệu quả lao động của bản than; là những con người giàu long yêu nước,
thương dân có tình thương yêu giai cấp, thương yêu đồng loại sống nhân văn,
nhân đạo; có ý thức kiên cường đấu tranh bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, chống
lại những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch. Tóm lại đó là những con
người vừa có đức vừa có tài, vừa hồng vừa chuyên.
+ Nhân tố con người
là chủ thể khơi dậy tác dụng của các nhân tố khác. Hơn nữa, vời tiềm năng sáng
tạo của mình nếu được phát huy đúng đắn, nhân tố con người có thể tạo ra những
nguyên liệu mới, những năng lượng mới không co sẳn trong tự nhiên để bù đắp
những thiếu hụt của tư nhiên, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
VD:
Hiện nay, trong
điều kiện cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ
thì tri thức là yếu tố nền tảng , quan trọng để tạo ra sự phát triển nhanh
chóng . Nhưng tri thức lại do con người sáng tạo ra không ngừng. Do vậy, đầu tư
và phát huy nhân tố con người trở thành yếu tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi
của mỗi quốc gia trong cuộc đua phát triển.
____________
Câu 11. Trình bày thực trạng và phương hướng, giải
pháp phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay ?
I THỰC TRẠNG PHÁT
HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI VN
1 Những kết quả đạt
được :
Theo kết quả
điều tra dân số đến tháng 12/2010, Việt Nam có gần 87 triệu người. Điều này phản
ánh nguồn nhân lực của Việt Nam đang phát triển dồi dào. Nguồn nhân lực Việt
Nam được cấu thành chủ yếu là nông dân, công nhân, trí thức, doanh nhân, dịch vụ
và nhân lực của các ngành, nghề. Trong đó, nguồn nhân lực nông dân có gần 62
triệu người, chiếm hơn 70% dân số; nguồn nhân lực công nhân là 9,5 triệu người
(gần 10% dân số); nguồn nhân lực trí thức, tốt nghiệp từ đại học, cao đẳng trở
lên là hơn 2,5 triệu người, chiếm khoảng 2,15% dân số; nguồn nhân lực từ các
doanh nghiệp khoảng 2 triệu người, trong đó, khối doanh nghiệp trung ương gần 1
triệu người…. Sự xuất hiện của giới doanh nghiệp trẻ được xem như một nhân tố mới
trong nguồn nhân lực, nếu biết khai thác, bồi dưỡng, sử dụng tốt sẽ giải quyết
được nhiều vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
Đảng và Nhà nước ta
xác định việc đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài, giáo dục đào tạo, khoa học
kỹ thuật là quốc sách hàng đầu.
Do thể lực và trình
độ học vấn của người Vn được nâng lên, nên tính chủ động, tính tích cực xã hội,
tính sáng tạo của người VN đã được phát huy có hiệu quả hơn trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
2 Những hạn chế
trong việc phát huy nhân tố con người Vn:
+ Trong một thời
gian dài chúng ta chúng ta đã tuyệt đối hóa mặt xã hội của con người, dẫn đến
xem nhẹ mặt tự nhiên, không quan tâm thỏa đáng đến những nhu cầu, lợi ích vật
chất và tinh thần chính đáng của con người.
+ Có lúc chúng ta
đã đề quá cao tính giai cấp, không chú ý kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp
của con người Vn và xem nhẹ tính nhân loại nên đã làm cho nhân cách con người
không phát triển một cách toàn diện, vì thế nhân tố con người chưa phát huy có
hiệu quả.
+Tình trạng quan
lieu trong bộ máy nhà nước chưa khắc phục được; một bộ phận cán bộ đảng viên
thoái hóa, biến chất, cùng với những tiêu cực nẩy sinh và phát triển chưa ngăn
chặn và giải quyết kịp thời…Đã làm cho long tin của nhân dân đối với Đảng với
chế độ bị suy giảm..
+ Trình độ chuyên
môn kỷ thuật thấp, lao động qua đào tạo nghề của nguồn nhân lực nước ta còn
thiếu về số lượng ( lao động qua đào tạo mới đạt 25 %) , hạn chế về chất lượng
bất hợp lý về cơ cấu và nhìn chung chưa đáp ứng nhu cầu của thị trường.
+ Do lịch sử để
lại, con người Vn chi5i ảnh hưởng khá nặng tâm lý, thói quen của người sản xuất
nhỏ tiểu nông. Chủ nghĩa bình quân còn chi phối khá nặng trong xã hội. Tính tổ
chức , kỷ luật lao động công nghiệp còn nhiều hạn chế. Trong cơ chế thị trường
và hợp tác quốc tế, nhiều thói hư tật xấu phát triển, tệ nạn xã hội gia tăng…
+ Đầu tư cho giáo
dục – đào tạo còn thấp” chất lượng giáo dục còn yếu kém… Chương trình , phương
pháp dạy và học còn lạc hậu, nặng nề chưa phù hợp” Tình trạng tiêu cực trong
giáo dục còn phổ biến ở nhiều nơi, chất lượng giáo viên còn hạn chế.
II PHƯƠNG HƯỚNG VÀ
GIẢI PHÁP PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI Ở VN
1 Phương hướng cơ
bản:
Đảng ta luôn nhận
thức đúng tầm quan trọng của vấn đề con người và việc phát huy nhân tố con
người trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, coi đó vừa là yêu cầu của sự nghiệp
cách mạng vừa là yêu cầu của chính sự nghiệp hoàn thiện bản thân con người, xay
dựng con người mới XHCN.
Phương hướng cơ bản
để phát huy nhân tố con người trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta đã được Đảng ta đề cập trong các nghị quyết của Đại hội Đảng và nhiều
nghị quyết của BCH TW; thể hiện sâu sắc và cụ thể trong chủ trương, chính sách
của nhà nước:
Thứ nhất: “ Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế trí thức”.
Đặc trưng của cnh,
hđh là sử dụng một cách phổ biến nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỷ thuật
cao dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ
nhằm tạo ra năng xuất lao động xã hội cao.
Để đạt được mục
tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
( Đại Hội X) chúng ta phải gắn cnh, hđh với phát triển kinh tế tri thức nhằm
gút ngắn quá trình cng, hđh tạo ra cơ sở vật chất kỷ thuật cần thiết cho cnxh.
Đẩy mạnh cnh, hđh
và từng bước vững chắc chuyển sang nền kinh tế tri thức là căn cứ khoa học và
phù hợp với xu thế chung của thới đại. Điều nầy chỉ thành công khi có chính
sách đúng về phát triển nguồn nhân lực và phát huy có hiệu quả nhân tố con
người Vn.
Tóm lại: ngh, hđh
vừa là điều kiện vật chất cần thiết và quan trọng để phát triển đất nước, nâng
cao chất lượng đời sống con người, để bồi dưỡng phát huy nhân tố con người,
đồng thới vừa đặc ra yêu cầu khách quan phải phát huy nhân tố con người- yếu tố
quyết định đến thắng lợi cnh, hdh đất nước.
Thứ hai, xây dựng
và từng bước hoàn chỉnh một hệ thống chính sách xã hội phù hợp.
Chính sách xã
hội là một bộ phận hợp thành hệ thống chính sách của Đảng và Nn ta, là sự thể
hiện lý tưởng chính trị, cương lĩnh, đường lối cm của đảngcộng sản, trong hệ
thống pháp luật của nhà nước xhcn và thể hiện bằng quá trình tổ chức thực hiện
trong cuộc sống. Chính sách xã hội thể hiện trên tất cả các lĩnh vực và thể
hiện rỏ nhất bản chất của một chế độ xã hội.
Chính sách xã hội
phải hướng tới con người và vì con người, qua đó chăm lo và tạo điều kiện thuận
lợi cho mỗi người được học tập, rèn luyện phấn đấu vươn lên và cống hiến hết
mình vì sự phát triển của đất nước. Để thực hiện được điều đó phải bảo đảm: “
tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và trong suốt hóa trình phát triển”
Thứ ba, từng bước
xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý của chế độ xhcn.
Cơ chế quản lý của
một xã hội là toàn bộ những thiết chế, những quy định về mối quan hệ trách
nhiệm, quyền hạn giữa cá nhâ với tổ chức, giữa tổ chức với tổ chức nhằm thực
hiện mục đích quản lý xã hội theo một định hướng nhất định của giai cấp cầm
quyền.
Chế độ xhcn là chế
độ quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, nhân dân làm chủ trên mọi lĩnh vực. Do
vậy, xã hội phải tạo ra những điều kiện thuận lợi đề người lao động có thể tham
gia tích cực vào công việc quản lý xã hội, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước,
qua đó nhân tố con ngưới mới phát huy một cách hiệu quả vào các qu1 trình phát
triển.
Thứ tư : thực hiện
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.
Cuộc cách
mạng tư tưởng văn hóa có nhiệm vụ trang bị lý luận chủ nghĩa Mac – lenin, tư
tưởng HCM cho quần chúng nhân dân lao động. Do vậy thực hiện cuộc cách mạng tư
tưởng và văn hóa chính là nhằm bồi dưỡng, phát triển và phát huy tốt hơn nhân
tố con người VN trong quá trình xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc xhcn.
2Những giải pháp
phát huy nhân tố con người VN
2.1Trên lĩnh vực
kinh tế
Xác lập địa vị làm
chủ của người lao động trong quá trình lao động sản xuất thông qua việc tạo
điều kiện cho họ làm chủ những tư liệu sản xuất của toàn xã hội, ở mọi thành
phần kinh tế. Phát huy sáng kiến của người lao động trong quá trình lao động
sản xuất thông qua việc tạo điều kiện cho họ làm chủ những tư liệu sản xuất của
toàn xã hội, ở mọi thành phần kinh tế. Phát huy sáng kiến của người lao động
trong quá trình lao động sản xuất, phát triển kinh tế nhằm đáp ứng tốt hơn nhu
cầu ăn, ở, học hành, chữa bệnh, đi lại…của người lao động; thực hiện phân phối
công bằng, công khai và dân chủ.
Khai thác mọi tiềm năng thế mạnh của
mỗi cá nhân, mỗi tập thể, mỗi địa phương trong quá trình sản xuất kinh
doanh; phát triển ngành nghề truyền thống, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
____________
Câu 12 : Trình bày vai trò, chức năng của gia đình trong CNXH và
xác định phương hướng, giải pháp xây dựng gia đình mới ở nước ta hiện nay?
I. Vị
trí, chức năng của Gia đình trong xã hội:
1.
Quan niệm về gia đình:
a) Định nghĩa gia đình:
Với tư cách
một hình thức cộng đồng tổ chức đời sống xã hội, gia đình được hình thành từ rất
sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Xuất phát nhu cầu bảo tồn
và duy trì nòi giống, từ sự cần thiết phải nương tựa vào nhau để sinh tồn, các
hình thức quần tụ giữa nam giới và nữ giới, những hình thức cộng đồng tổ chức đời
sống gia đình đã xuất hiện. Lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều hình thức gia
đình: gia đình đối ngẫu, gia đình một vợ một chồng...
2. Vị trí gia đình trong xã hội:
a) Gia đình là tế bào của xã hội:
Có thể ví
xã hội là một cơ thể sống hoàn chỉnh và không ngừng biến đổi được "sắp xếp,
tổ chức" theo nhiều mối quan hệ trong đó gia đình được xem là một tế bào,
một thiết chế cơ sở đầu tiên. Mỗi một chế độ xã hội được sinh thành, vận động
và biến đổi trên cơ sở một phương thức sản xuất xác định và có vai trò quy định
đối với gia đình. Nhưng xã hội ấy lại tồn tại thông qua các hình thức kết cấu
và quy mô gia đình. Mỗi gia đình hạnh phúc, hoà thuận thì cả cộng đồng và xã hội
tồn tại và vận động một cách êm thấm. Mục đích chung của sự vận động biến đổi của
xã hội trước hết vì lợi ích của mỗi công dân, mỗi thành viên xã hội và mỗi gia
đình - tổ chức và thiết chế xã hội đầu tiên, cơ sở nơi quần tụ của mỗi công dân
và thành viên của xã hội. Nhưng lợi ích của mỗi công dân, mỗi thành viên xã hội
lại chịu sự chi phối của lợi ích các tập đoàn giai cấp thống trị trong xã hội,
trong điều kiện xã hội phân chia thành giai cấp.
b) Trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định quy mô, kết cấu,
hình thức tổ chức và tính chất của gia đình:
Quan điểm
duy vật về lịch sử đã chỉ ra rằng, gia đình là những hình thức phản ánh đặc thù
của trình độ sản xuất, của trình độ phát triển kinh tế.
Trong tiến
trình lịch sử nhân loại, các phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu
nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa đã lần lượt thay thế
nhau, kéo theo và dẫn đến sự biến đổi về hình thức tổ chức, quy mô và kết cấu
cũng như tính chất của gia đình. Từ gia đình tập thể - quần hôn với các hình thức
huyết thống, đối ngẫu, gia đình cặp đôi bước sang hình thức gia đình cá thể, một
vợ một chồng; từ gia đình một vợ, một chồng bất bình đẳng, chỉ về phía người phụ
nữ, người vợ sang gia đình một vợ, một chồng ngày càng bình đẳng giữa nam - nữ,
giữa các thành viên trong gia đình. Tất cả những bước tiến đó của gia đình phụ
thuộc chủ yếu và trước hết vào những bước tiến trong sản xuất, trong trình độ
phát triển kinh tế của mỗi thời đại.
c) Gia đình là một thiết chế cơ sở, đặc thù của xã hội, là cầu nối
giữa cá nhân với xã hội:
Trong hệ thống
cơ cấu tổ chức của xã hội, gia đình được coi là thiết chế cơ sở, đầu tiên, nhỏ
nhất. Sự vận động biến đổi của thiết chế tuân theo những quy luật chung của cả
hệ thống. Nhưng thiết chế ấy vận động biến đổi còn trên cơ sở kế thừa các giá
trị văn hoá truyền thống của mỗi nền văn hoá, mỗi vùng và địa phương khác nhau
và còn được bộc lộ, thể hiện ở mỗi thành viên và thế hệ thành viên trong sự
"giao thoa" của mỗi cá nhân và mỗi gia đình. Thông qua các hoạt động
tổ chức đời sống trong gia đình và của gia đình, mỗi cá nhân, mỗi gia đình tiếp
nhận, chịu sự tác động và "phản ứng " lại đối với những tác động của
xã hội, thông qua các tổ chức, các thiết chế, chính sách... của XH. Sự đồng thuận hay không đồng thuận của những tác động từ xã
hội, nhà nước với những hình thức tổ chức, sinh hoạt trong thiết chế gia đình sẽ
tạo ra kết quả tốt hay xấu của mỗi chế độ xã hội, mỗi thời đại.
d) Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hoà
trong đời sống cá nhân của mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội:
Từ thuở lọt
lòng cho đến suốt cuộc đời, mỗi thành viên được nuôi dưỡng, chăm sóc để trở thành
công dân của xã hội, lao động cống hiến và hưởng thụ, đóng góp cho xã hội trước
hết và chủ yếu là thông qua gia đình và với gia đình. Sự yên ổn, hạnh phúc mỗi
gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân
cách, bảo đảm đạt hiệu quả cho các hoạt động lao động của xã hội. Rõ ràng là,
muốn xây dựng xã hội phải chú ý xây dựng gia đình. Xây dựng gia đình là trách
nhiệm, là một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể các mục tiêu phấn đấu của xã hội,
vì sự ổn định và phát triển của chính xã hội.
3. Các chức năng cơ bản của gia đình:
a) Chức năng tái sản xuất ra con người:
Tái sản xuất
ra chính bản thân con người là một chức năng cơ bản và riêng có của gia đình.
Chức năng này bao gồm các nội dung cơ bản: tái sản xuất, duy trì nòi giống,
nuôi dưỡng nâng cao thể lực, trí lực bảo đảm tái sản xuất nguồn lao động và sức
lao động cho xã hội.
b) Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình:
Hoạt động
kinh tế và tổ chức đời sống vật chất là một chức năng cơ bản của gia đình. Hoạt
động kinh tế, hiểu theo nghĩa đầy đủ gồm có hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt
động tiêu dùng để thoả mãn các yêu cầu ăn mặc, ở, đi lại của mỗi thành viên và
của gia đình.
Thực hiện tốt
chức năng kinh tế sẽ tạo ra tiền đề và cơ sở vật chất vững chắc cho tổ chức đời
sống của gia đình. Đương nhiên, ngoài cơ sở kinh tế, thì còn nhiều yếu tố khác
mới đảm bảo cho một gia đình trở nên văn minh, hạnh phúc.
c) Chức năng giáo dục của gia đình:
Nội dung của
giáo dục gia đình tương đối toàn diện, cả giáo dục tri thức và kinh nghiệm,
giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm mỹ, ý thức cộng đồng.
Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng, song chủ yếu là phương pháp
nêu gương, thuyết phục, chịu ảnh hưởng không ít của tư tưởng, lối sống, tâm lý,
gia phong của gia đình truyền thống. Dù giáo dục xã hội đóng vai trò ngày càng
quan trọng, có ý nghĩa quyết định, nhưng có những nội dung và phương pháp giáo
dục gia đình mang lại hiệu quả lớn không thể thay thế. Giáo dục gia đình còn
bao hàm cả tự giáo dục. Do đó, chủ thể giáo dục gia đình cơ bản và chủ yếu vẫn
là thế hệ cha mẹ, ông bà đối với con cháu.
d) Chức năng
thoả mãn các nhu cầu tâm-sinh lý, tình cảm của gia
đình:
Nếu như
trình độ sản xuất kinh doanh, hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống gia đình là
điều kiện và tiền đề vật chất của xây dựng gia đình, thì thoả mãn các nhu cầu
tâm sinh lý được coi là một chức năng có tính VH-XH của gia
đình. Chức năng này có vị trí đặc biệt quan trọng, cùng với các chức năng khác
tạo ra khả năng thực tế cho xây dựng gia đình hạnh phúc.
Gia đình,
thông qua thực hiện các chức năng khách quan vốn có của mình, có vai trò rất
quan trọng đối với sự phát triển xã hội, nhưng chỉ với tư cách là của cái bộ phận
đối với cái toàn thể. Mọi quan điểm tuyệt đối hoá, đề cao quá mức hay phủ nhận,
hạ thấp vai trò của gia đình đều là sai lầm.
4. Một số nội dung chủ yếu của xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện
nay:
a) Nội dung cơ bản, trực tiếp
của xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay là xây dựng
gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Đây chính là mục tiêu, là chuẩn
mực cơ bản mà chúng ta cần xây dựng, là đích hướng tới hiện nay của mỗi gia
đình ở nước ta. No ấm, được hiểu là sự thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh
thần cơ bản phù hợp với khả năng lao động cống hiến của mỗi gia đình, mỗi thành
viên gia đình, là kết quả của sự lao động cần cù, sáng tạo, chính đáng của gia
đình và thành viên gia đình. Trong gia đình, cần chú trọng xây dựng quan hệ dân
chủ, bình đẳng giữa các thành viên, nhất là dân chủ, bình đẳng giữa nam - nữ,
giữa cha, mẹ - con cái, tạo nên sự nề nếp, hoà thuận, kỷ cương mới trong gia
đình. Sự tiến bộ của gia đình về mọi mặt dựa trên sự tiến bộ của mỗi thành viên
và gắn liền với sự phát triển về mọi mặt của xã hội. Gia đình hạnh phúc không
chỉ là no ấm, dân chủ, bình đẳng, tiến bộ, mà còn là tổng thể những nét đẹp
trong đời sống văn hoá tinh thần mỗi gia đình, trong quan hệ cộng đồng, quan hệ
xã hội, quan hệ giữa các thành viên trong từng gia đình.
b) Một trong những nội dung cơ bản và là đặc thù
của xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là ngay từ đầu cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng,
phát triển kinh tế với giải quyết và thực hiện công bằng xã hội trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Do đó, các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế phải hướng
tới phát triển và giải quyết tốt các vấn đề xã hội, trong đó có xây dựng gia
đình mới, no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Ngược lại, xây dựng gia đình
mới, cần phải gắn bó, trở thành một bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội. Liên quan đến vấn đề này, hiện nay chúng ta một mặt phải rà soát lại
các chiến lược kế hoạch phát triển kinh tế gắn với giải quyết các nhu cầu phát
triển xã hội, trong đó có xây dựng và phát triển mọi gia đình, mặt khác cần đưa
ra các đề nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các chính sách xã hội có liên quan đến
vấn đề xây dựng gia đình: việc làm, xoá đói giảm nghèo, phúc lợi xã hội, y tế
và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, dân số và kế hoạch hoá gia đình...
Cảm ơn
Trả lờiXóaCảm ơn
Trả lờiXóacảm ơn rất nhiều
Trả lờiXóaCảm ơn bạn!
Trả lờiXóavery good
Trả lờiXóa