Thứ Tư, 2 tháng 7, 2014

12 câu Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học

____________ 
Câu 1 Bằng lý luận thực tiễn, hãy phân tích để khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vẫn giữ nguyên giá trị trong thời đại hiện nay ? Liên hệ sứ mệnh  lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam ?

          Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất, xuất sắc nhất của CNXH khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại nhất của Chủ nghĩa Mác. Trước sự khủng hoảng và sụp đổ của CNXH ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều người đã bộc lộ sự dao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Các phần tử cơ hội, xét lại và các thế lực thù địch đã lợi dung để tuyên truyền nhằm phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhận và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nhất là trong bối cảnh lịch sử hiện nay đang đặt ra một cách bức thiết trên cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân còn có ý nghĩa rất lớn trong việc hiểu rõ ý nghĩa và nội dung căn bản cụ thể của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn mới – giai đoạn phải thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Giai cấp CN là gc của những người lđ được hình thành và phát triển cùng với nền sxcn ngày càng hiện đại và xh hoá cao; là gc đại diện của llsx và ptsx tiên tiến trong thời đại hiện nay, có sứ mệnh lsử lđạo và tổ chức ndlđ các nước tiến hành cm xhcn, xd chế độ xhcn, cscn.
Những đặc điểm cơ bản chung nhất của gccn:
Là gc của những người lđ sx ra vchất là chủ yếu (với trình độ trí tuệ ngày càng cao, đồng thời cũng ngày càng có những sáng chế, phát minh lý thuết được ứng dụng ngay trong sx). Vì thế, gccn vẫn có vai trò qđịnh nhất sự tồn tại và ptriển của xh.
Có lợi ích cơ bản đối lập với lợi ích cơ bản của gcts ( gccn: xoá bỏ chế độ tư hữu, xoá bỏ áp bức blột; giành cquyền và làm chủ xh. Gcts không bao giờ tự rời bỏ những vấn đề cơ bản đó). Do vậy, gccn có tinh thần cm triệt để.
Là “ gc dtộc”- vừa có qhệ qtế, vừa có bản sắc dtộc, và chịu trách nhiệm trước hết với dtộc mình.
Có hệ ttưởng riêng của gc mình: đó là cn M-L p.ánh sứ smls của gccn, đồng thời hệ ttưởng đó dẫn dắt quá trình gccn thực hiện smls của gc mình nhằm giải phóng xh, giải phòng con người. gccn có Đảng tiên phong của mình là ĐCS ( Đảng M-L).
Bất kỳ gccn nước nào, khi đã có đảng tiên phong của nó, đều có những đặc điểm cơ bản- chung nhất đó. Do vậy, gccn mỗi nước đều là một bộ phận kg tách rời gccn các nước trên toàn tgiới. Vì vậy cn M-L mới có quan điểm đúng đắn về smls toàn thế giới của gccn.
Ngoài những đặc điểm cơ bản -chung nhất của gccn nêu trên, gccn có những đặc điểm riêng do những điều kiện lsử cụ thể tạo ra:
Trong chế độ tbcn, gccn chưa làm chủ sở hữu các tlsx của xh. Họ là gc làm thuê và bị gcts bóc lột, thống trị.
Trong đk đã lãnh đạo xh đi lên cnxh, gccn đã đã cùng toàn dân làm chủ chủ sở hữu các tlsx chủ yếu cảu toàn xh; đảng của nó đã lđạo xh về mọi mặt. Ngoài ra, gccn mỗi nước còn có sự khác nhau về tính dân tộc, về ls hình thành, về trình độ mọi mặt và mức sống … gắn với đặc thù quốc gia dtộc.
Smls  của gccn: 03 nội dung cơ bản
Trực tiếp sx ra những sp cnghiệp ngày càng hiện đại- cơ sở vchất kỹ thuật, cơ sở ktế cho tất cả các nước theo xu hướng cnh, hđh và phát triển ngày càng cao. Không có gccn lớn mạnh, không một qgia nào ( kể cả các qgia phát triển nhất hiện nay) có thể tồn tại và ptriển được.
Thông qua đảng tiên phong của mình, gccn lđạo và tổ chức để ndlđ giành cq, xoá bỏ cq của chế độ tư hữu, áp bức, blột; xd cq của gccn và ndlđ.
Thông qua đảng tiên phong của mình lđạo, tổ chức ndlđ xd và bảo vệ xh, tiến dần lên cncs ở mỗi nước và trên toàn tgiới. Đây là nội dung cơ bản qđịnh cuối cùng, rất mói mẻ, phức tạp, do đó việc thực hiện nó còn phải qua quá trình lịch sử rất lâu dài (không thể nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí mà hoàn thành được nội dung này).
Những điều kiện khách quan quy định smls của gccn:
Nền sxcn ngày càng hiện đại đã kquan tạo ra gccn, họ vốn có những đặc điểm: đại diện cho ptsx tiên tiến, có lưọi ích cơ bản đối lập với lợi ích của gcts; có tinh thần cm triệt để, có ý thức tổ chức kỷ luật cao; có hệ tư tưởng riêng, có chính đảng tiên phong … Do đó, kg một gc hay tầng lớp nào có được những đặc điểm như gccn- “ gc cn là sp của đại công nghiệp” – Mác, Ăngghen nhận định như vậy là hoàn toàn đúng.
Qua sự ptriển sxcn, gccn được trang bị nhiều kthức mới về vh cơ bản, khcn, tay nghề, nhận thức chính trị … và đó cũng là yêu cầu kquan ngày càng cao của sự ptriển công nghiệp ngày càng hiện đại đối với gccn.
Nền sxcn ngày càng hiện đại và xh ho, qtế hoá ngày càng cao thì gccn càng được tăng thêm lực lượng ( cả về slượng lẫn chất lượng). Sự gia tăng này là do các gc, tầng lớp xh ngày càng được lôi cuốn tham gia vào các qtrình sxcn hiện đại và nhiều hđộng ct-xh khác, họ cùng vươn lên làm chủ sx hiện đại, làm chủ xh. Đúng như cn M-L đã chỉ rõ: gccn đã được “ tuyển mộ” từ các gc, tầng lớp xh khác ( như nd, trí thức, tiểu ts, tiểu chủ, học sinh …) Đó là một xu thế kquan của lsử.
Trong cntb có mâu thuẩn cơ bản hình thành một cách kquan, gồm 2 mặt: Mặt ktế đó là mâu thuẫn giữa llsx ngày càng xh hoá cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tbcn về tlsx; Mặt ctrị-xh đó là mâu thuẫn giữa gccn và gcts. Cả 2 mặt của mâu thuẩn cơ bản này kg thể gquyết triệt để trong khuôn khổ cntb, tất yếu dẫn đến cm xhcn do gccn lđạo và tổ chứ. Đó là quy định kquan cho smls của gccn. Trí thức, nd … sẽ là lực lượng tham gia vào cuộc cm xhcn chức kg thể là lực lượng lđạo và tổ chức cuộc cm xhcn. Bời vì, trí tứhc và nd không đại biểu cho một ptsx riêng trong lsử; không có một hệ tư tưởng riêng. Vả lại, trong cntb, mâu thuẩn cơ bản là mâu thuẩn trực tiếp giữa gccn và gcts, do đó cm xhcn phải là của gccn lđạo tiến hành lật đổ gcts để giải phóng gccn, đồng thời giải phóng cho cả nd, trí thức và nd bị áp bức, bóc lột.
Chủ nghĩa tư bản tuy có công làm cho Xh loài người phát triển và thay thế chế độ phong kiến điều đó không thể chói bỏ, nhưng CNTB cũng gây nhiều tội ác với XH loài người, với tự nhiên bởi sự khai thác  tàn phá tự nhiên, về tài nguyên, về môi trường , qhxh là quan hệ áp bức bất công, vô nhân đạo , phi nhân tính ắc sẽ đư XH đi tới diệt vong. Chỉ có CNXH mới có thể ngăn chặn và khắc phục những hạn chế yếu kém đó của CNTB, để loài người tiếp tục sống trong một XH phát triển nhanh bền vững. trên cơ sở lý luận và thực tiển những điều kiện khách quan cơ bản trên do đó đối với hiện nay tuân thủ theo quy luật hoạt động lịch sử thì XH loài người vẫn đang tiếp tục trong bước quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới và bước quá độ này phải do lực lượng tiến bộ nhất trong XH do gccn lãnh đạo tổ chức và thực hiện, ngoài gccn ra không có thể có một lực lượng nào khác đảm đương được.
Những đặc điểm cơ bản của gccn VN:
Ngoài những đặc điểm cơ bản- chung nhất của gccn như gccn các nước, gcnn VN có những đặc điểm riêng do hoàn cảnh lsử cụ thể tạo ra:
Ra đời từ một nước nn lạc hậu lâu đời, một nước thuộc địa nửa pk, sau cuộc khai thác thuộc địa của thực dân xâm lược Pháp ( cuối tk XIX, đầu tk XX).
Đại đa số xuất thân từ nông dân nghèo ra đô thị, vào các đồn điền, xưởng máy nhỏ .. làm thuê cho chủ tư bản xâm lược.
Khi ra đời, trình độ kh kỹ thuật, tay nghề và mức sống còn thập, vì VN lúc đó chưa có nền cn hiện đại và chịu aảnhhưởng nặng nề của sx nhỏ, tiểu nông.
Có truyền thống lđ cần cù, yêu nước nồng nàn, gắn bó mật thiết với dtộc, nhất là nông dân và các tầng lớp lđộng.
Sớm được giác ngộ cm và thành lập đảng tiên phong do HCM- Người đưa cn M-L và VN và đông dương- sáng lập và rèn luyện. Gccn sớm trở thành gc lđạo cm VN từ khi có Đảng của nó. Hơn 70 năm qua, gccn và nd VN đã thu được nhiều thắng lợi lớn trong cm giải phóng dtộc và xd cnxh.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, tuy đã có nhiều thành tựu to lớn, song gccn VN vẫn có nhiều mặt hạn chế, đặc biệt là về trình độ văn hoá cơ bản, khcn và tay nghề; giác ngộ ct và mức sống tuy có khá hơn sau những năm đổi mới có kết quả, nhưng nhìn chung cũng còn hạn chế, chưa tương xứng với yêu cầu đẩy mạnh cnh, hđh theo định hướng xhcn.
Hội nghị Ban chấp hành TW 6, khóa X của Đảng xác định mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân VN đến năm 2020:
+Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng; yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội tiêu biểu cho tinh hoa văn hóa dân tộc;
+ Nhạy bén và vững vàng trước những phức tạp của tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình đất nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc và hợp tác quốc tế;
+ Xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng thộng qua đội tiền phong là đảng cộng sản vn, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước;
+ Là nồng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng;
+ Phát triển nhanh chóng về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước;
+ Ngày càng được trí thức hóa, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học – khoa học tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế trí thức; có tác phong công ngiệp và kỷ thuật lao động cao; thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Các mục  tiêu quan hệ chặc chẽ với nhau, để xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, thực hiện giai cấp lãnh đạo cách mạng , giai cấp tiên phong và đi đầu trong sự nghiệp xây  dựng và bảo vệ tổ quốc VN xhcn, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

____________

Câu 2 Hãy trình bày vai trò của Đảng Cộng Sản đối với sứ mệnh lich sử của giai cấp công nhân ? Liên hệ Đảng Cộng Sản Việt Nam ?
TRẢ LỜI

GCCN muốn thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình phải có Đcs lãnh đạo. Đó là nguyên lý tất yếu khách quan, là điều kiện chủ quan quyết định gccn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Vì chỉ có ĐCS mới trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là yếu tố quyết định đảm bảo cho giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Có ĐSC lãnh đạo cuộc đấu tranh của gccn mới chuyển từ tự phát thành tư giác.
Có ĐCS lãnh đạo thì giai cấp công nhân mới có đường lối, phương pháp cách mạng đúng để tập hợp, đoàn kết các tầng lớp, giai cấp xã hội khác, đoàn kết toàn dân tộc tiến hành cánh mạng xhcn thắng lợi.
II ĐẢNG CỘNG SẢN LÀ GÌ ?
Tháng 02 năm 1930 ĐCS VN ra đời do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Đảng đã khẳng định :
 ĐCS là đội tiên phong của giai cấp công nhân, là một tổ chức chính trị thống nhất, chặt chẽ gồm những người ưu tú nhất trong giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc; lấy chủ nghĩa Mac – lenin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của mình.
ĐCS có vai trò quyết định định đảm bảo cho giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Bởi vì ĐSC là một bộ phận hữu cơ, nằm trong giai cấp công nhân. Đảng chẳng những là đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp công nhân mà còn là đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của toàn thể nhân dân lao động và dân tộc. Đảng thể hiện vai trò quyết định qua 03 mặt sau:
+ Đảng là đội tiên phong: ĐCS thể hiện vai trò tiên phong không những của gccn và còn của cả dân tộc, tùy theo từng trường hợp CM của từng nước, từng thời điểm mà Đảng thể hiện vai trò tiên phong, như ở đầu thế kỷ XX lúc bấy giờ đấu tranh trong CNTB rất đơn giản mà Mác giọ là “hai phe” giữ gcts và gccn nhưng khi bước sang giữa thế kỷ XX đấu tranh trong CNTB đã chuyển sang giai đoạn cao hơn lúc bấy giờ thì phía gccn gồm gccn và các tầng lớp lao động khác trong xã hội, phía gcts bao gồm cntb đế quốc và các thế lực phản động. Do đó vai trò tiên phong của ĐCS không chỉ của gccn mà của cả nhân dân lao động. Như ở VN đất nước thời kỳ thuộc địa nữa phong kiến, ĐCS không những tiên phong trong gccn, nhân dân lao động mà còn tiên phong trong cả dân tộcVN. Đó là tiên phong về trình độ chí tuệ, tiên phong về lý luận, tiên phong về hành động tấm gương  là sự gương mẫu của người ĐCS trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù. chỉ có gccn nào xây dựng cho mình một Đảng vững vàng tiêu biểu về cả quan điểm, chí tuệ về cả hành động trong quá trình CM thì mới đi đến thành công.
+ Vai trò lãnh tựu chính trị: là vai trò đảng đề ra cương lĩnh, đường lối cách mạng, trong quá trình CM gccn có thể hình thành nhiều tổ chức chính trị nhưng tính tiên phong trong vai trò chính trị chỉ có thể là ĐCS, các tổ chức khác như công đoàn không thể là lãnh tựu chính trị. Đảng tiên phong trong vai trò lãnh tựu chính trị, tiên phong về lý luận  trên nguyên tắc CNMLN và vận dụng vào từng điều kiện lịch sử cụ thể trong nước cho phù hợp. để đưa ra cương lĩnh, đường lối CM trong nước đúng đắn sáng tạo như vậy mới sứng đáng là lãnh tựu chính trị, mới đưa CM đi đến thành công.
+ Vai trò tham mưu chiến đấu: Nếu đảng thể hiện vai trò tiên phong, vai trò lãnh tựu chính trị bảo đảm nhưng vai trò tham mưu chiến đấu không đảm bảo thì Đảng sẻ không thành công. Vì vậy vai trò tiên phong, vai trò lãnh tựu chính trị vai trò tham mưu chiến đấu cũng phải thể hiện một cách tài tính xuất sắc thì CM mới thắng lợi, SMgccn mới hoàn thành được.
Hiện nay gccn muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình nhất thiết phải xây dựng một ĐCS toàn diện, Đảng phải tuân thủ vai trò tiên phong, đảm bảo vai trò lãnh đạo chính trị, đặc biệt là vai trò tham mưu chiến đấu phải thể hiện một người tham mưu tài tình mới đưa được cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng.

 Những vai trò tham mưu đó đã được ĐCS VN thể hiện một cách xuất sắc trong cách mạng tháng tám, đặt biệt là 02 cuộc CM chống pháp, chống Mỹ cứu nước và cuộc CM đổi mới đất nước, thể hiện qua chiến thắng ĐBP, chiến dịch HCM lịch sử thống nhất đất nước. trong công cuộc đổi mới đất nước của các nước CNXH đã có không ít nước đã thể hiện vai trò tham mưu của Đảng yếu kém đã đánh mất vai trò lãnh đạo của Đảng. nhưng tuy trong điều kiện đất nước vô cùng khó khăn sau chiến tranh mà ĐCS VN đã tham mưu xuất sắc trong cuộc CM đổi mới đạt được những thành tựu vô cùng to lớn, trong thực tiễn đất nước thoát khỏi tình trạng lạc hậu yếu kém, vị thế ngày càng được nâng lên trong khu vực và trên thế giới.

 Bên cạnh những kết quả đạt được, Hiện nay công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Nổi lên một số vấn đề cấp bách sau đây:
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...
Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng, nhưng chưa được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước
Để tạo chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới, cần tiếp tục thực hiện tốt 8 nhiệm vụ trong công tác xây dựng Đảng mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra, coi đó là những nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa lâu dài và phải thực hiện thường xuyên, có hiệu quả, đồng thời tập trung cao độ để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt ba vấn đề cấp bách sau đây:
Một là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong ba vấn đề trên, vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất
Đẩy lùi được những hạn chế yếu kém trên Đảng mới đảm bảo được vai trò quyết định của  Đảng Cộng Sản đối với sứ mệnh lich sử của giai cấp công nhân.
____________

Câu 3:  Hãy nêu những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ? liên hệ với đặt trưng chủ nghĩa xã hội ở VN ?

TRẢ LỜI
1. Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin:
CNXH là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nó có sự khác nhau về chất và nguyên tắc xây dựng so với Chủ nghĩa tư bản. Dựa vào cơ sở lý luận khoa học của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể nêu ra những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau:
- Đặc trưng thứ nhất: cơ sở vật chất – kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
Chỉ có nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa năng suất lao động lên cao, tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu về vật chất và văn hóa của nhân dân, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân. Nền công nghiệp hiện đại đó được phát triển dựa trên lực lượng sản xuất đã phát triển cao. –
Đặc trưng thứ hai: Chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực chất của công cuộc cải tạo xã hội theo lập trường của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, không phải xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ sở hữu này được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm  thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, xóa bỏ dần những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội, làm cho mọi thành viên trong xã hội ngày càng gắn bó với nhau vì những lợi ích căn bản.
- Đặc trưng thứ ba: Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một quá trình hoạt động tự giác của đại đa số nhân dân lao động, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính bản chất và mục đích đó, cần phải tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới phù hợp với địa vị làm chủ của người lao động, đồng thời khắc phục những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ.
- Đặc trưng thứ tư: Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động – nguyên tắc phân phối cơ bản nhất.
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm cho mọi người có quyển bình đẳng trong lao động sáng tạo và hưởng thụ. Mọi người có sức lao động đều có việc làm và được hưởng thù lao theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Đó là một trong những cơ sở của công bằng xã hội ở giai đoạn này.
- Đặc trưng thứ năm: Chủ nghĩa xã hội có Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới, nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thông qua nhà nước, Đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Đây là một “nhà nước nửa nhà nước”, với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn.
- Đặc trưng thứ sáu: CNXH đã giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức về kinh tế và nô dịch về tinh thần, bảo đảm sự phát triển toàn diện cá nhân, hình thành và phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi người phát huy tính tích cực của mình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhờ xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa mà xóa bỏ sự đối kháng giai cấp, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người, tình trạng nô dịch và áp bức dân tộc, thực hiện được sự công bằng, bình đẳng xã hội.
Những đặc trưng trên phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội, nói lên tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Và do đó, chủ nghĩa xã hội là một xã hội tốt đẹp, lý tưởng, ước mơ của toàn thể nhân loại. Những đặc trưng đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do đó, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải quan tâm đầy đủ tất cả các đặc trưng này.

 NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CNXH VIỆT NAM
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu và lý tưởng của toàn Đảng và toàn dân ta. Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch  Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn dân đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, dựng nên nhà nước dân chủ cộng hòa, tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện lý tưởng cao đẹp của toàn Đảng, toàn dân: xây dựng Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa  phồn vinh.
Tại Đại hội Đảng Lần Thứ XI “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) đã điều chỉnh, chuẩn hóa một số nội dung và cô đọng hóa một số đặc trưng. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
1 - Đặc trưng bao quát nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây dựng được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định, là: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp nhất, ước mơ ngàn đời của loài người, cho nên cũng là mục tiêu phấn đấu của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, đây là đặc trưng phổ quát, có tính bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến bộ hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ xã hội trước đó. Xã hội tư bản có đời sống vật chất và tiện nghi rất cao; dân có thể giàu, nước có thể mạnh, nhưng từ trong bản chất của chế độ xã hội tư bản, ở đó không thể có công bằng và dân chủ: nhà nước là nhà nước tư sản; giàu có là cho nhà tư bản; sự giàu mạnh có được bằng quan hệ bóc lột. Trong xã hội như vậy, người dân không thể là chủ và làm chủ xã hội.
2 - Xã hội “do nhân dân làm chủ”.
“Làm chủ” được coi là bản chất và quyền tự nhiên của con người, bởi xã hội là xã hội của loài người, xã hội đó do con người tự xây dựng, tự quyết định sứ mệnh của mình; tuy nhiên trong thực tiễn lại là chuyện khác. Lịch sử đấu tranh cho tiến bộ của nhân dân các dân tộc trên thế giới chính là lịch sử đấu tranh giành và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Chỉ đến chủ nghĩa xã hội, nhân dân mới thực sự có được quyền đó. Cho nên “nhân dân làm chủ xã hội” là đặc trưng quan trọng và quyết định nhất trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng này không thể tách rời những yêu cầu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.
Để có được một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, điều tiên quyết là xã hội đó phải có một nền kinh tế phát triển. Bởi vì kinh tế là lực lượng vật chất, nguồn sức mạnh nội tại của cơ thể xã hội, nó quyết định sự vững vàng và phát triển của xã hội. Với các nội dung và lô-gíc vận động như đã luận giải trên, Đảng ta đã tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trước mắt là hoàn thiện thể chế của nó; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, nhằm xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại để có một nền kinh tế phát triển cao - điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững xã hội xã hội chủ nghĩa.
4 - “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Nếu như “nền kinh tế phát triển cao” là nội lực, là sức mạnh vật chất cho phát triển xã hội thì văn hóa là nguồn lực tinh thần bên trong của phát triển xã hội. Văn hóa là tinh hoa con người và dân tộc, tinh hoa xã hội và thời đại; bởi vậy, nó là sức mạnh con người và dân tộc, sức mạnh xã hội và thời đại.
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần kế thừa và phát huy những giá trị, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc; đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và văn hóa thời đại để phát triển văn hóa Việt Nam thực sự là nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một vườn hoa muôn sắc các phẩm chất, các giá trị, ở đó bản sắc văn hóa các dân tộc, cộng đồng người khác nhau phải được độc lập tồn tại, tôn vinh, phát huy, phát triển. Chính vì vậy, Đảng ta chủ trương phát triển nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc; thống nhất trong đa dạng, làm phong phú diện mạo văn hóa Việt Nam.
5 - “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Nói đến cùng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, quá trình phấn đấu đạt tới những giá trị của xã hội xã hội chủ nghĩa đều là vì con người. Con người là thực thể cao nhất của giới tự nhiên, nó là sản phẩm của thiên nhiên nhưng cao siêu và bí ẩn gấp ngàn lần thiên nhiên. Bởi con người có trí tuệ và tình cảm, có khát vọng và khả năng chiếm lĩnh những đỉnh cao hiểu biết để tạo cho mình một thế giới Người - thế giới Văn hóa. Cho nên lịch sử của loài người là lịch sử con người đấu tranh xóa bỏ mọi lực cản thiên nhiên và xã hội để vươn tới một xã hội cao đẹp nhất - xã hội đó chính là xã hội xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng người nhất của khát vọng con người là hạnh phúc. Bởi có thể người ta giàu có, đầy đủ tiện nghi, được phát triển, song vẫn bất hạnh. Hạnh phúc là trạng thái yên lành, hài hòa, là tinh thần thoải mái biểu hiện sự mãn nguyện thanh cao nhất của con người. Phấn đấu đạt tới một xã hội bảo đảm hạnh phúc cho con người, đó là một xã hội văn hóa cao.
- “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”.
Nếu như các đặc trưng nêu trên (kinh tế, văn hóa, con người) là những yếu tố thuộc phẩm chất bên trong tạo nên một chỉnh thể xã hội, thì ở đặc trưng này đòi hỏi những yếu tố thiết yếu cho sự tồn tại bền vững của xã hội lành mạnh. “Bình đẳng” là một phẩm chất và giá trị nhân quyền thể hiện trình độ phát triển và chất nhân văn cao của xã hội. “đoàn kết” là sức mạnh - đó là một chân lý. Hồ Chí Minh đã khái quát một chân lý: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công. Đồng thời đây cũng là một giá trị đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. “Bình đẳng” và “đoàn kết” chính là nền tảng của sự “tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Đoàn kết toàn dân, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc đã làm nên thành công của cách mạng Việt Nam. Và giờ đây, tinh thần đó, phương châm đó đang là những nét đặc sắc của giá trị xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
7 - “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”.
Nhà nước pháp quyền là một hình thức quản lý nhà nước trên một trình độ cao và hiệu quả. Nó điều hành hoạt động của các cơ quan nhà nước và xã hội bằng pháp luật. Nhưng vấn đề ở đây là pháp luật nào? Pháp luật của ai và vì ai?
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý và điều hành đất nước và xã hội bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí của nhân dân; vì vậy, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đây là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân không thể nào khác là dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đảng mang bản chất, lý tưởng, nội dung xã hội chủ nghĩa, là đảng thực hiện mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
8 - “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.
Theo nguyên lý phát triển xã hội, đặc biệt trong thế giới hiện đại, mỗi quốc gia là một bộ phận hợp thành cộng đồng quốc tế. Sự phát triển quốc gia xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ có được khi đẩy mạnh “quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Quan hệ hữu nghị và hợp tác chính là thể hiện bản chất hòa hảo, thiện chí và tạo điều kiện cho các quốc gia hội nhập, tiếp thu những thành quả phát triển của mỗi bên, tích lũy kinh nghiệm và rút ngắn quá trình phát triển của mỗi nước. Điều có ý nghĩa lớn lao hơn là ở chỗ, “hữu nghị”, “hợp tác”, “phát triển” chính là bản chất, là khát vọng hòa đồng theo bản chất trí tuệ và tình cảm nhân văn cao cả có tính nhân loại của con người, của loài người; điều thể hiện bản chất cao đẹp nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Với tinh thần và tư duy biện chứng về phát triển xã hội, Đảng ta quan niệm: Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình vận động, chuyển hóa liên tục, không ngừng phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa cũng luôn luôn vận động, chuyển hóa và phát triển. Mười, mười lăm, hai mươi năm tới, các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa hiện nay chắc chắn sẽ có những bổ sung mới đáp ứng đòi hỏi mới của phát triển xã hội. Điều đó đặt ra cho Đảng ta trọng trách là phải không ngừng đổi mới tư duy, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để vừa tiếp tục khám phá ra những vấn đề, những nội dung, những đặc trưng mới, vừa sáng suốt lãnh đạo toàn dân ta xây dựng xã hội đạt tới các phẩm chất và các giá trị, vươn tới các đặc trưng mới của xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai./.
____________



C âu 4: Dựa trên cơ sở nào Đảng ta khẳng định: Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa? Hãy làm rõ nội dung bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa theo quan điểm của Đảng ta?

Lịch sử vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam, thực tiễn phát triển của thế giới suốt thế kỷ XX, cũng như thập niên đầu thế kỷ XXI đã chứng minh rằng, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế vận động tiến bộ của thời đại và điều kiện lịch sử - cụ thể của Việt Nam. 
 Trong xu thế vận động chung đó của thế giới, thì việc Việt Nam “đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử… Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Điều đó được lý giải bởi những lẽ sau:
Thứ nhất, trong lịch sử xã hội loài người giữa hình thái kinh tế - xã hội (HTKTXH) cũ và HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một thời kỳ quá độ (TKQĐ). Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các HTKTXH. Song, không phải HTKTXH này kết thúc hoàn toàn rồi HTKTXH tiếp sau mới ra đời. Giữa HTKTXH cũ bị thay thế và HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một giai đoạn chuyển tiếp, một TKQĐ.
Thứ hai, học thuyết Mác - Lê-nin chứng minh rằng, loài người với tính cách một chỉnh thể nhất thiết phải trải qua 5 HTKTXH. Nhưng, do đặc điểm lịch sử - cụ thể do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong chi phối, không phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các HTKTXH từ thấp đến cao theo một trình tự sơ đồ chung. Mà có những nước có thể bỏ qua một hoặc vài HTKTXH nào đó trong tiến trình phát triển của mình. Sự bỏ qua này đã và đang diễn ra trong lịch sử. ví dụ nước Mỹ từ một nước chiếm hữu nô lệ đã tiến thẳng lên CNTB bỏ qua chế độ Phong kiến.
Thứ ba, cũng như lịch sử xã hội loài người nói chung, trong thời đại ngày nay, việc bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Điều đó được quy định bởi:
Một là, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể hiện nay nước ta có những điều kiện khách quan bên ngoài và bên trong để quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Điều kiện bên ngoài là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai đoạn mới của quá trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nếu chúng ta thực hiện hiệu quả phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất - kỹ thuật, xã hội loài người đòi hỏi phát triển lên một xã hội mới của nền văn minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó, quá độ lên CNXH là con đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau CNTB nhất định phải là một chế độ xã hội tốt đẹp hơn - chế độ XHCN. Bối cảnh, điều kiện quốc tế mới nêu trên đã tạo khả năng để Việt Nam chúng ta thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Điều kiện bên trong là nước ta đã giành được độc lập dân tộc, có chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của hơn 25 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện tiên quyết, quyết định con đường quá độ lên CNXH ở nước ta.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà trình độ phát triển kinh tế - xã hội chưa vượt hoàn toàn khỏi tiến trình phát triển của CNTB, tiến trình đó phải được tiếp tục đẩy mạnh dưới chính quyền của nhân dân, mà hình thức thích hợp nhất là CNTB nhà nước và kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHCN theo định hướng XHCN. Đó cũng là tư tưởng cốt lõi của Chính sách kinh tế mới (NEP) trong TKQĐ lên CNXH do Lê-nin vạch ra.
Hai là, hai xu hướng phát triển khách quan của nền kinh tế nước ta và sự lựa chọn một trong hai xu hướng đó. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền kinh tế nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
Chúng ta không đi theo con đường TBCN vì thời đại ngày nay không phải là thời đại của CNTB, mặc dù CNTB đang có sự điều chỉnh để thích nghi với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhưng CNTB vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn, bất công xã hội thuộc về bản chất của chế độ TBCN. Theo quy luật phát triển của lịch sử thì CNTB không thể không bị phủ định. Đó là xu thế khách quan. CNTB là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay thế bằng một chế độ xã hội mới, phát triển ở trình độ cao hơn, với giai đoạn đầu là CNXH. Với sự phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa, chính CNTB cũng đã và đang tạo ra những tiền đề vật chất - kỹ thuật để chuyển sang CNXH. Hướng thứ hai, là thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN dựa trên cơ sở củng cố chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; dựa vào khối liên minh công - nông - trí thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Con đường này hoàn toàn mới mẻ và không ít khó khăn, nhưng giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao động. "Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội....
Những thành tựu đã đạt được qua hơn 25 năm đổi mới đã chứng tỏ: chọn con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là đúng hướng, phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Bởi lẽ, chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động khỏi mọi áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: quy luật của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Chỉ có đi lên CNXH mới giữ được độc lập, tự do cho dân tộc, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Chỉ có CNXH mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Và trong thực tiễn, CNXH không những đã trở thành động lực tinh thần, mà còn là sức mạnh vật chất to lớn góp phần đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta đến thắng lợi. Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo những tiền đề cả vật chất và tinh thần để có thể "rút ngắn" tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội. Vì thế, trong sự lựa chọn con đường đi lên cho mình, dân tộc ta đã chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Đó là con đường phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc tế.

Tại Đại hội VI, Đảng ta đã tự phê bình nghiêm túc, rút ra những bài học sâu sắc, từ đó đề ra đường lối đổi mới. Đại hội VI là mốc lịch sử rất quan trọng trên con đường xây dựng và phát triển Đảng ta và đất nước ta.
Đại hội XI của Đảng ta đánh giá. Những thành tựu đạt được trong hơn 25 năm đổi mới là vô cùng to lớn và có ý nghĩa lịch sử đó là nhờ có đường lối cách mạng đúng đắn, được xây dựng trên cơ sở khoa học là chủ nghĩa Mác- Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản, với sự nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, “đất nước bước đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.
Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả từ phương diện thực tiễn vận động của lịch sử nhân loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng, xây dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại, với đặc điểm lịch sử - cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân ta./.

____________


Câu 5: Phân tích quan điểm của Lênin : “Dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào tiến bộ nhất cũng dân chủ gấp triệu lần hơn” Liên hệ nền dân chủ nước ta hiện nay?

I THEO QUAN ĐIỂM CỦA LENIN – SO SÁNH DÂN CHỦ VÔ SẢN VÀ DÂN CHỦ TƯ SẢN:
Sự khác nhau căn bản giữa hai nền dân chủ là;
A Dân chủ thuộc về ai?
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ của đại đa số nhân dân lao động, đại diện và phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động, đại diện và phục vụ cho lợi ích nhân dân lao động. Còn nền dân chủ tư sản, hay bất cứ nển dân chủ nào cũng diều là nền dân chủ của thiểu số gcts hay các giai cấp khác nếu có trong XH, đại diện và phục vụ cho giai cấp đó mà thôi.
Dân chủ tư sản phục vụ cho lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản và giai cấp này nắm mọi quyền hành trong tay chi phối toàn xã hội. Đó là một nền dân chủ số ít, chuyên chính số đông. Dân chủ giả hiệu nửa vời: đó là những lời hứa suông, lợi ích là một thứ bánh vẽ. Trái lại và có sự đầy đủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, với tư cách là chế độ nhà nước đc sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo mọi quyền lực đều thuộc về tay nhân dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp nhân dân lãnh đạo thông qua chính đảng của họ. Điều đó cho thấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
B Bản chất giai cấp của dân chủ:
Dân chủ tư sản phục vụ cho lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản và giai cấp này nắm mọi quyền hành trong tay chi phối toàn xã hội. Đó là một nền dân chủ số ít, chuyên chính số đông. Dân chủ giả hiệu nửa vời: đó là những lời hứa suông, lợi ích là một thứ bánh vẽ. Trái lại và có sự đầy đủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, với tư cách là chế độ nhà nước đc sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo mọi quyền lực đều thuộc về tay nhân dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp nhân dân lãnh đạo thông qua chính đảng của họ. Điều đó cho thấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
C Cơ sở khách quan quy định bản chất giai cấp dân chủ:
Cơ sở khách quan quy định bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu, phù hợp với tính chất, trình độ phát triển cao của lực  lượng sản xuất, cho phép tạo nên sự bình đẳng về quyền lực của đại đa số nhân dân lao động.
Còn cơ sở khách quan quy định bản chất của chế độ dân chủ tư sản là chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thừa nhận chế độ người bóc lột người, tạo nên sự bất bình đẳng, đối kháng sâu sắc về lợi ích trong xã hội .
D Cơ sở chính trị - xã hội của chế độ dân chủ:
Cơ sở chính trị - xã hội của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của giai cấp công nhân, khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính đảng cộng sản.
Còn cơ sở chính trị - xã hội của giai cấp tư sản là bản chất của giai cấp tư sản.
E Hình thức , cơ chế thực  hiện dân chủ
Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện thông qua nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Còn đối với dân chủ tư sản là đó là nhà nước pháp quyền tư sản.
F Mục tiêu dân chủ:
Mục tiêu dân chủ xã hội chủ nghĩa là hướng tới giải phóng xã hội, giải phóng con người nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phù hợp với nguyện vọng lợi ích chính đáng của nhân dân. Thực hiện một nền dân chủ thật sự trên mọi mặt đời sống xã hội.
Còn mục tiêu dân chủ tư sản là nhằm duy trì thiết lập, bảo vệ lợi ích , sự áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, sự bất công trong xã hội, sự bất bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc, kìm hãm sự tiến bộ, văn minh của nhân loại. Thực hiện một nền dân chủ giả hiệu, giả dối và cắt xén.
II NỀN DÂN CHỦ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY:
                Dân chủ luôn là vấn đề lớn được đề cập trong văn kiện của các Đại hội Đảng ta. Suốt quá trình đổi mới đất nước từ 1986 đến nay, nhận thức về dân chủ của Đảng ta ngày càng hoàn thiện, đã trở thành chủ trương, chính sách và đi vào thực tiễn cuộc sống. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, dân chủ XHCN ở nước ta ngày càng được phát triển, mở rộng, trở thành động lực cho phát triển đất nước.
Trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm về dân chủ của các Đại hội Đảng đã qua, thành tựu và những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh, các văn kiện của Đại hội XI đã thể hiện một hệ thống những quan điểm lý luận về dân chủ vừa có tính nguyên tắc chung, vừa có tính thực tiễn ở tầm chủ trương, chính sách cụ thể, thể hiện trên một số khía cạnh cơ bản như sau:
 Dân chủ với nghĩa dân là chủ, dân làm chủ là bản chất của chế độ XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ ra quan niệm mới về CNXH, trong đó dân chủ có một vị trí xứng đáng hơn: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Với quan điểm đó, Đảng ta chủ trương xây dựng nền dân chủ như một nội dung quan trọng của quá trình phát triển đất nước trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.   
Trong mối quan hệ giữa dân chủ và hệ thống chính trị, từ Đại hội VII (1991), Đảng ta đã xác định đổi mới hệ thống chính trị là hướng tới xây dựng nền dân chủ XHCN, là làm cho dân chủ của hệ thống chính trị phát triển hơn nữa.
Trong hệ thống chính trị, nhà nước là một công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là thành phần cơ bản và chủ yếu của cơ chế dân chủ gián tiếp. Các văn kiện của Đại hội XI đều đề cập tới Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với bản chất và nguyên tắc tổ chức là một nhà nước dân chủ : “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, để thể hiện dân chủ, Nhà nước phải hoàn thiện về mặt pháp lý cơ chế hoạt động của chính bộ máy nhà nước. Đó là sự phân công, phối hợp, kiểm tra và giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan, các thể chế nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện Kiểm sát. Cương lĩnh đã dùng khái niệm “kiểm soát” giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nhằm bảo đảm dân chủ trong cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước. Đây là một điểm mới đáng ghi nhận trong tư duy về tổ chức nhà nước của Đảng ta.
Nền dân chủ XHCN ở Việt Nam trong nhiều thập kỷ nay không tách rời với vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Bên cạnh chức năng xã hội, các tổ chức đó còn có chức năng chính trị, là các thể chế của nền dân chủ.
Thực tiễn đổi mới ở nước ta cũng chứng minh, sự phát triển dân chủ phụ thuộc một phần quan trọng vào thực hành dân chủ trong Đảng. Mỗi bước mở rộng dân chủ trong Đảng sẽ là nguồn động viên, khích lệ đối với việc mở rộng dân chủ trong hệ thống chính trị và trong xã hội nói chung. Thắng lợi của Đại hội XI của Đảng đã chứng minh tính đúng đắn của việc phát huy dân chủ trong Đảng.

____________

Câu 6: Tại sao nói đổi mới hoạt động của Nhà nước ta hiện nay là một trong những giải pháp cơ bản để bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân? 
Đổi mới hoạt động của nhà nước ta hiện nay là một trong những giải pháp cơ bản để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân vì :
I MỤC TIÊU CỦA ĐỔI MỚI NHÀ NƯỚC:
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đại hội VII xác định: “ là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa , bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân” Phân định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước; chức năng, nhiệm vụ của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
II YÊU CẦU ĐỔI MỚI CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ:
Yêu cầu đổi mới của hệ thống chính trị là giữ vững ổn định để phát triển; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; bảo đảm đất nước phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
III NỘI DUNG CỦA ĐỔI MỚI NHÀ NƯỚC:
“ Phát huy dân chủ, tiếp tục và xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là nội dung đổi mới quan trọng nhất hiện nay.
Nhiệm vụ cụ thể là :
+ Phát huy dân chủ, xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ , Đảng viên và công chức phải thật sự là công bộc của nhân dân.
+ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện lập pháp, hành pháp và tư pháp.
+ Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí đây là nhiệm vụ hàng đầu của Nhà nước.
____________


Câu 7. Vì sao trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải thực hiện liên minh công – nông – trí thức? Trình bày những nội dung cơ bản của liên minh công – nông  -trí ở nước ta hiện nay?
1. Tính tất yếu phải thực hiện liên minh công – nông – trí thức
Liên minh giữa Giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là hình thức hợp tác đặc biệt trong công cuộc đấu tranh nhằm lật đổ chế độ Tư bản chủ nghĩa xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa cộng sản.
Tính tất yếu được thể hiện:
Liên minh CNT trong thời kỳ quá độ lên CNXH là sự đoàn kết, hợp lực, hợp tác, liên kết…giữa gc công nhân với gc nông dân và đội ngũ trí thức nhằm thực hiện nhửng nhiệm vụ, giải quyết các vấn đề về lợi ích không chỉ cho một lực lượng mà còn cho cả các lực lượng tham gia, đồng thời góp phần vào sự nghiệp chung xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Liên minh CNT trong thời kỳ quá độ lên CNXH mang tính tất yếu từ điều kiện và đòi hỏi khách quan của chính giai đoạn lịch sử đặc biệt này.
Công nhân, nông dân đội ngũ trí thức điều là giai tầng của những người lao động có nhu cầu, khác vọng cơ bản thống nhất cho nên công nhân, nông dân trí tức dễ đồng cảm, đ iđến đoàn kết, hợp tác vì sự nghiệp phát triển nói chung và lợi ích của mình nói riêng.
Từ thực tiễn của công cuộc xây dựng CNXH càng thấy rõ tầm quan trọng đặc biệt của liên minh CNT . V.Lê nin từng nói “ Chuên chính vô sả là một hình thức đặc biệt của liên minh giữa gcvs, đội tiền phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân trí thức).              
  Công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH là công việc hoàn toàn mới, đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, lâu dài, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì sự nghiệp giải phóng không chỉ cho giai cấp công nhân, mà cho toàn xã hội. Trong cơ cấu xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp tầng lớp, trong đó nông dân còn chiếm đa số, tầng lớp trí thức có xu hướng ngày càng phát triển. Mỗi giai cấp tầng lớp còn có những đặc điểm, vị trí kinh tế - xã hội, vai trò khác nhau.
Để xây dựng thành công xã hội mới, XH XHCN, tiến lên CNCS thì giai cấp công nhân phải coi việc xây dựng liên minh công – nông - trí thức là vấn đề có tính chiến lược; nhất là trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH và đặc biệt hơn đối với các nước tiền tư bản, bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH

2. Những nội dung cơ bản của liên minh công – nông  -trí ở nước ta hiện nay?
Liên minh công – nông – trí thức ở Việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, tạo động lực to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa đi đến thắng lợi.
Nguyên tắc cơ bản chung nhất của liên minh công – nông trí là “ kết hợp đúng đắn các lợi ích” trên các l ĩnh vực các nội dung của liên minh. Do đó việc liên minh CNT cần phải đảm bảo các yếu tố sau mới đảm bảo thắng lợi:
Một là: mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản nhất của GCCN, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và của cả dân tộc ta là: Độc lập dân tộc và CNXH. Nhưng để đạt được mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản đó khi thực hiện liên minh lại không thể dung hòa lập trường chính trị của 3 giai tầng mà phải trên lập trường tư tưởng chính trị của GCCN. Bởi vì, chỉ có phấn đấu thực hiện mục tiêu lý tưởng của GCCN thì mới thực hiện được đồng thời cả nhu cầu lợi ích chính trị cơ bản của công nhân, nông dân, trí thức và của dân tộc là lập dân tộc và CNXH.
Hai là: Khối liên minh chiến lược này phải đo Đảng của GCCN lãnh đạo thì mới có đường lối chủ trương đúng đắn để thực hiện liên minh, thực hiện quá trình giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng CNXH thành công. Do đó, Đảng Cộng sản từ trung ương đến cơ sở phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để lãnh đạo khối liên minh và lãnh đạo xã hội là vấn đề có ý nghĩa như 1 nguyên tắc về chính trị của liên minh. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, liên minh công- nông- trí thức ở nước ta còn làm nòng cốt cho liên minh chính trị rộng lớn nhất là Mặt trận Tổ quốc, là cơ sở để xây dựng nền dân chủ XHCN, đồng thời là nền tảng cho nhà nước XHCN ngày càng được củng cố lớn mạnh để bảo vệ tổ chức và xây dựng CNXH.
Ba là: nội dung chính trị của liên minh không tách rời nội dung, phương thức đổi mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả nước. Dưới góc độ của liên minh, cần cụ thể hóa việc đổi mới về nội dung tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị trong GCCN, nông dân và trí thức. Nội dung chính trị cấp thiết nhất hiện nay là triển khai thực hiện “Quy chế dân chủ ở cơ sở”, nhất là ở nông thôn.
2. Nội dung kinh tế của liên minh:
Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản, quyết định nhất, là cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc của liên minh trong thời kỳ quá độ. Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta trong thời kỳ quá độ được cụ thể hóa ở những điểm sau đây:
- Phải xác định đúng thực trạng, tiềm năng kinh tế của cả nước và của sự hợp tác quốc tế, từ đó mà xác định đúng cơ cấu kinh tế gắn liền với những nhu cầu kinh tế của công nhân, nông dân, trí thức và của toàn xã hội. Đảng ta xác định cơ cấu kinh tế chung của nước ta là “Công- nông nghiệp- dịch vụ”. Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta còn xác định “Từng bước phát triển kinh tế tri thức, từ đó ma tăng cường liên minh công- nông- trí thức”
- Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế phát triển dưới nhiều hình thức hợp tác, liên kết, giao lưu… trong sản xuất, lưu thông phân phối giữa công nhân, nông dân, trí thức; giữa các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, khoa học công nghệ và các lĩnh vực khác; giữa các địa bàn, vùng, miền dân cư trong cả nước, giữa nước ta và các nước khác.
- Từng bước hình thành QHSX XHCN trong quá trình thực hiện liên minh. Việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải được thể hiện qua việc đa dạng và đổi mới các hình thức hợp tác kinh tế, hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, trang trại, dịch vụ ở nông thôn. Trong quá trình hình thành QHSX phải trên cơ sở công hữu hóa các TLSX chủ yếu, kinh tế nhà nước vươn lên giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế cả nước, theo định hướng XHCN.
- Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta còn thể hiện ở vai trò của Nhà nước. Nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện liên minh. Vai trò của Nhà nước đối với nông dân thể hiện qua chính sách khuyến nông, các tổ chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế Nhà nước, Nhà nước có những chính sách hợp lý thể hiện quan hệ của mình với nông dân, tạo điều kiện cho liên minh phát triển. Nông nghiệp và nông thôn không chỉ là một ngành kinh tế, một khu vực kinh tế mà còn là một lĩnh vực mang ý nghĩa sinh thái xã hội.
Đối với tri thức, Nhà nước cần phải đổi mới và hoàn chỉnh các luật, chính sách có liên quan trực tiếp đến sở hữu trí tuệ như chính sách phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, về bản quyền tác giả, về báo chí, xuất bản, về văn học nghệ thuật… Hướng các hoạt động của trí thức vào việc phục vụ công- nông, gắn với cơ sở sản xuất và đời sống toàn xã hội.
3. Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh:
Liên minh về văn hóa, xã hội thể hiện qua các nội dung cụ thể sau đây:
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Nội dung xã hội mang ý nghĩa kinh tế và chính trị cấp thiết trước mắt của liên minh là tạo nhiều việc làm có hiệu quả, đồng thời kết hợp các giải pháp cứu trợ, hỗ trợ để xóa đói, giảm nghèo cho công nhân, nông dân và trí thức.
- Đổi mới và thực hiện tốt các chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ xã hội trong công nhân, nông dân, trí thức cũng là nội dung xã hội cần thiết, đồng thời còn mang ý nghĩa giáo dục truyền thống, đạo lý, lối sống… cho toàn xã hội và thế hệ mai sau.
- Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản, lâu dài. Trước mắt tập trung vào việc củng cố thành tựu xóa mù chữ, trước hết là đối với nông dân, nhất là ở miền núi. Nâng cao kiến thức về khoa học công nghệ, về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, các hủ tục lạc hậu, các biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, quan liêu. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
- Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học công nghệ với quy hoạch phát triển nông thôn, đô thị hóa, công nghiệp hóa nông thôn với kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi và hiện đại.Xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, các công trình phúc lợi công cộng 1 cách tương xứng, hợp lý ở các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Có như vậy, nội dung liên minh mới toàn diện và đạt mục tiêu của định hướng XHCN và mới làm cho công- nông- trí thức cũng như các vùng, miền, dân tộc xích lại gần nhau trên thực tế.
 . ____________


Câu 8. Hãy nêu cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách dân tộc của Đảng ta và làm rõ nội dung chính sách dân tộc của Đảng ta hiện nay?

Trong suốt quá trình xây dựng, trưởng thành và phát triển lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Dựa trên những quan điểm của CN Mác Lên nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc Đảng ta đã đề ra các chủ trương, chính sách dân tộc với những nội dung cơ bản là; bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đở lẫn nhau cùng phát triển. Vì Đại hội Đảng khoá XI  Đảng xác định, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của đất nước ta. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”

Trước tiên chúng ta tìm hiểu thuật ngữ dân tộc là gì? Dân tộc là chính là sản phẩm của lịch sử, có quá trình hình thành và phát triển lâu dài dựa trên nền kinh tế nhất định do điều kiện biến đổi của PTSX là điều kiện tác động đến cộng đồng người vậy Dân tộc  chính là một cộng đồng người ổn định, được hình thành và phát triển trong lịch sử, sống trên cùng một lãnh thổ nhất định, có chung một mối quan hệ về KT, ngôn ngữ, , tâm lý, nền  văn hóa

            Đặc trưng chung nhất của dân tộc là: Có chung một phương thức sinh hoạt KT. Đây là đặc trưng quan trọng nhất, cơ bản nhất, là cơ sở nền tảng cho sự vững chắc của cộng đồng dân tộc. Có chung một vùng lãnh thổ nhất định, trên lãnh thổ đó các thành viên gắn bó với nhau, cùng nhau lao động để tồn tại và phát triển. Có tiếng nói chung làm công cụ giao tiếp giữa các thành viên trong các lĩnh vực KT, VH, tình cảm … Có tâm lý riêng tạo nên bản sắc của nền VH dân tộc. Các dân tộc trên thế giới được hình thành trong những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau nhưng vấn đề cơ bản nó cần hội đủ hoặc gần đủ các đặc trưng nêu trên thì dân tộc mới được hình thành. Tính kết dính của cộng đồng dân tộc được tạo bởi tính cộng đồng KT, XH, chính trị, tư tưởng và tộc người. Mỗi nhân tố đóng một vai trò xác định, nhưng không phát huy một cách riêng rẽ mà liên kết trong một kết cấu năng động, làm nổi bật dấu hiệu XH - tộc người của cộng đồng dân tộc.

 Khi nghiên cứu các vần đề DT và phong trào DT trong điều kiện CNTB, Lênin đã phát hiện ra xu hướng khách quan: thứ nhất, do sự thức tỉnh, trưởng thành của ý thức DT mà các cộng đồng dân cư muốn tách ra để lập các cộng đồng DT độc lập. Thứ hai, là liên hiệp giữa các dân tộc lại với nhau do sự phát triển của LLSX, của khoa học và công nghệ; tạo nên sức hút các dân tộc vào các liên minh được hình thành trên những cơ sở lợi ích nhất định và nhằm tập trung vào việc giải quyết những Vấn đề chung của nhân loại. như: chống ô nhiễm môi trường, sinh thái, dịch bệnh… có nguy cơ lan rộng trên toàn thế giới. Lợi ích toàn cầu có tác động sâu xa gắn bó loài người trong cùng quá trình vận động thống nhất các dân tộc, Quốc gia trên thế giới còn đang ở trình độ phát triển khác nhau và đang cần sự hổ trợ nhau cùng tiến bộ.


            Trong CNTB do mục tiêu của mọi chính sách trước hết là phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, do vậy mà hai xu hướng khách quan trên không được giải quyết. Vì vậy, Lênin cho rằng một cương lĩnh DT đúng đắn phải phù hợp với mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề DT và vấn đề giai cấp. Đồng thời tạo ra môi trường cho sự vận động của hai xu hướng khách quan trong một tiến trình thống nhất. Đặc biệt Lênin đã nêu ra Cương lĩnh về vấn đề DT gồm có ba nội dung chính:

            Thứ nhất, các DT có quyền bình đẳng. Thực chất là xóa bỏ sự nô dịch của DT này với DT khác trên cơ sở đó dần dần xóa bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển của các DT trên mọi lĩnh vực: KT, CT, VH… Điều đó cần phải được ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật Nhà nước và điều quan trọng hơn là phải được thực hiện trong đời sống thực tế.

            Thứ hai, quyền tự quyết đó là quyền tự quyết định lấy vận mệnh của DT mình, quyền quyết định con đường phát triển và chế độ chính trị, XH của DT mình mà không bị lệ thuộc hoặc bị ép buộc bởi ai khác. Để quyền tự quyết được thực hiện đúng đắn phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân để xem xét. Lên án sự lợi dụng quyền tự quyết để xâm lược hoặc can thiệp vũ trang vào nước khác, chống tư tưởng DT lớn hoặc tư tưởng DT hẹp hòi ích kỷ.
            Thứ ba, sự đoàn kết, thống nhất giai cấp công nhân giữa các DT trong từng quốc gia cũng như trên toàn thế giới; chỉ có đứng vững trên lập trường  của giai cấp công nhân mới thực hiện được quyền bình đẳng và tự quyết đúng đắn, khắc phục được thái độ kỳ thị, lòng thù hằn dân tộc từ đó đoàn kết được nhân dân lao động các dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.Nội dung này đóng vai trò liên kềt của 3 nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể. ĐK GCCN các dân tộc là sự thể hiện thực tế tinh thần yêu nước mà thời đại ngày nay đã trở thành sức mạnh cực kỳ to lớn, phù hợp với tinh thần quốc tế chân chính đang lên tiến kêu gọi các dân tộc, quốc gia xích lại gần nhau.
         
Nước ta là một nước có bề dày lịch sử trên dải đất VN có 54 các thành phần DT, trong đó tộc người Kinh chiếm gần 87% dân số và 53 dân tộc còn lại chiếm trên 13% dân số.
            Về VH, XH: con người VN có truyền thống và tinh thần CM, tinh thần đoàn kết DT chống ngoại xâm, có tinh thần khắc phục khó khăn hoàn cảnh để vươn lên, có tinh thần khắc phục khó khăn hoàn cảnh để vươn lên, có tinh thần yêu nước, yêu CNXH.

            Tính chất: do sống xen kẽ, dan xen giữa các dân tộc người tạo nên một sự đa dạng, phong phú trong đời sống phong tục tập quán, truyền thống và bản sắc VH DT. Các tộc người VN đều có tiếng nói riêng và có chung ngôn ngữ thống nhất. Đó là lấy tiếng Việt - Kinh làm phương tiện giao tiếp chung. Bên cạnh có những tộc người có trình độ phát triển cao về KT, chính trị, VH, XH thì còn nhiều tộc người còn ở trình độ dân trí quá thấp.

            Truyền thống lịch sử lâu đời của DT ta đã chỉ ra rằng trong toàn bộ lịch sử của mình, các DT trên dãi đất VN đã chung sống hòa bình và phát triển, vừa có bản sắc riêng vừa có sự giao lưu chung, lịch sử cũng cho thấy không có sự mâu thuẫn sâu sắc giữa các dân tộc người. Đặc biệt khi có giặc ngoại xâm thì các tộc người VN đã sát cánh cùng nhau chống giặc.

            Chính vì vậy mà từ khi ra đời, Đảng ta đã coi vấn đề DT và đại đoàn kết DT là vấn đề quan trọng có tính chất chiến lược, là yếu tố phát huy sức mạnh tổng hợp, khai thác mọi tiềm năng của các thành phần DT trong sự nghiệp CM.

Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách dân tộc là nhất quán theo nguyên tắc “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ nhau cùng phát triển”.
1. Bình đẳng giữa các dân tộc trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội
- Bình đẳng giữa các dân tộc là nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc. Các dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp đều ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc được bảo đảm bằng pháp luật.
- Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, trước hết là quyền bình đẳng về chính trị, chống mọi biểu hiện chia rẽ kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ty dân tộc,… Quyền bình đẳng về kinh tế đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ lợi ích giữa các dân tộc. Nhà nước có trách nhiệm giúp các dân tộc có kinh tế chậm phát triển để cùng đạt trình độ phát triển chung với các dân tộc khác trong cả nước. Bình đẳng về văn hoá, xã hội đảm bảo cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc, làm phong phú, đa dạng nền văn hoá Việt Nam.
2. Đoàn kết các dân tộc
- Đoàn kết dân tộc được xác định là một nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Đoàn kết dân tộc được quán triệt xuyên suốt trong các giai đoạn cách mạng Việt Nam. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các dân tộc đang phát huy truyền thống đoàn kết tốt đẹp, cùng nhau xây dựng đất nước với mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và tiến bộ.
- Tất cả các dân tộc trên đất nước Việt Nam đều phải có trách nhiệm chăm lo vun đắp, củng cố, tăng cường khối đoàn kết dân tộc theo lời dậy của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
3. Tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển
- Do lịch sử để lại, hiện nay giữa các dân tộc ở nước ta vẫn còn tình trạng phát triển không đều.Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển là một tất yếu khách quan trong một quốc gia đa dân tộc. Đảng và Nhà nước ta đã coi trọng tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc là một nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế- xã hội cao hơn có trách nhiệm giúp đỡ các dân tộc có điều kiện phát triển kinh tế-xã hội khó khăn hơn. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau không phải chỉ giúp đỡ một chiều, ngược lại chính sự phát triển của dân tộc này là điều kiện để cho dân tộc khác càng phát triển.
- Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc, nhằm thực hiện đầy đủ quyền bình đẳng và củng cố khối đoàn kết dân tộc.
III. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TRONG NHỮNG NĂM QUA
1. Tóm tắt những thành tựu đạt được
- Những năm vừa qua, nhất là những năm trong thời kỳ đổi mới, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn trong tất cả lĩnh vực đời sống xã hội.
- Quyền bình đẳng giữa các dân tộc đã được thực hiện đầy đủ trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố.
- Kinh tế vùng dân tộc và miền núi có bước phát triển đáng kể, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm cao (trung bình 8% năm). Nền kinh tế nhiều thành phần bước đầu hình thành và phát triển, chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá. Đã hình thành nhiều vùng chuyên canh cây trồng, sản xuất với số lượng hàng hoá lớn như cà phê, chè, tiêu, điều…
- Kết cấu hạ tầng vùng dân tộc và miền núi đã được cải thiện rõ rệt, góp phần đắc lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội và nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc vùng dân tộc và miền núi.
- Công tác xoá đói giảm nghèo đạt được kết quả to lớn. Hàng năm tỷ lệ đói nghèo ở vùng dân tộc và miền núi giảm từ 3-4%. Đời sống của đồng bào các dân tộc được cải thiện đáng kể.
- Mặt bằng dân trí được nâng cao. Vùng dân tộc và miền núi đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ. Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú được hình thành và phát triển từ Trung ương đến các huyện vùng dân tộc và miền núi, tạo nguồn đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
- Đời sống văn hoá của các đồng bào các dân tộc được nâng cao một bước, văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số được tôn trọng, bảo tồn và phát huy. Hệ thống phát thanh truyền hình ở vùng dân tộc và miền núi không ngừng phát triển.
- Các loại dịch bệnh cơ bản được ngăn chặn. Việc khám chữa bệnh cho người nghèo vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ngày càng được quan tâm. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách ưu tiên chăm lo sức khoẻ đồng bào các dân tộc, nhất là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa biên giới.
- Hệ thống chính trị vùng dân tộc và miền núi được tăng cường và củng cố, nhất là ở cấp cơ sở. Công tác phát triển Đảng trong vùng đồng bào dân tộc được chú trọng.
Tình hình chính trị, trật tự xã hội ở vùng dân tộc và miền núi cơ bản ổn định. Quốc phòng, an ninh được giữ vững.

____________

Câu 9. Hãy nêu cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách tôn giáo của Đảng ta và làm rõ nội dung chính sách tôn giáo của Đảng ta hiện nay?
I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH TÔN  GIÁO CỦA ĐẢNG TA:
1Cơ sở lý luận:
1.1Quan điểm của Mác và Lenin về tôn giáo:
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phức tạp liên quan đến tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân trong các xã hội.
Nội dung cơ bản trong quan điểm của chủ nghĩa Mác Lenin : bản chất của tôn giáo là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội, phản ánh một cách hư ảo, lệch lạc hiện thực khách quan . Sự phản ánh của tôn giáo luôn cần đến biểu tượng thần linh, các lực lượng siêu thiêng nhiên nhằm thiên hóa sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội. Chính con người sinh ra tôn giáo.
Tôn giáo là một hình thái ý thức - xã hội ra đời và biến đổi theo sự biến động của điều kiện kinh tế - xã hội. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn tồn tại và có những biến đổi nhất định.
Các tôn giáo vẫn còn tồn tại lâu dài trong các nước xã hội chủ nghĩa là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Nguyên nhân nhận thức: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong chế độ xã hội chủ nghĩa trình độ dân trí của nhân dân chưa thật cao; nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học chưa giải thích được.
- Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài người, ăn sâu vào trong tiềm thức của nhiều người dân.
Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, thì ý thức xã hội bảo thủ hơn so với tồn tại xã hội, trong đó tôn giáo lại là một trong những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Tín ngưỡng, tôn giáo đã in sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn hoá tinh thần không thể thiếu của cuộc sống. Cho nên, dù có thể có những biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội... thì tín ngưỡng, tôn giáo cũng không thay đổi ngay theo tiến độ của những biến đổi kinh tế, xã hội mà nó phản ánh.
- Nguyên nhân chính trị - xã hội: Trong các nguyên tắc tôn giáo có những điểm còn phù hợp với chủ nghĩa xã hội, với đường lối chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là mặt giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo, đáp ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Dưới chủ nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có khả năng tự biến đổi để thích nghi theo xu hướng "đồng hành với dân tộc" sống "tốt đời, đẹp đạo", "sống phúc âm giữa lòng dân tộc"...
Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức vô cùng phức tạp; trong đó, các thế lực chính trị vẫn lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mưu đồ chính trị của mình. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo loạn, lật đổ... còn xảy ra ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ về chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo... cùng với những mối đe dọa khác là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.
- Nguyên nhân kinh tế: Trong chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ còn nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với những lợi ích khác nhau của các giai tầng xã hội, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... vẫn là một thực tế; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân chưa cao, thì con người càng chịu tác động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều đó đã làm cho con người có tâm lý thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.
- Nguyên nhân về văn hoá: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở một mức độ nào đó nhu cầu văn hoá tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Vì vậy, việc kế thừa, bảo tồn và phát huy văn hoá (có chọn lọc) của nhân loại, trong đó có đạo đức tôn giáo là cần thiết. Mặt khác, tín ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư, và do đó sự tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như một hiện tượng xã hội khách quan.
Như vậy tôn giáo vẫn tồn tại trong xã hội xã hội chủ nghĩa xét cho cùng nhằm giải quyết những vấn đề trong xã hội.

Cũng như các nước trên thế giới vấn đề tôn giáo vẫn tồn tại trong xã hội Việt nam là một yếu tố khách quan.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo và đa dân tộc. Giáo hội các tôn giáo khi được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân đều được chính quyền các cấp quan tâm và tạo thuận lợi để hoạt động tôn giáo bình thường trong khuôn khổ luật pháp.

Tình hình tôn giáo và hoạt động tôn giáo ở Việt Nam thể hiện những điểm sau đây:
- Thực trạng tín đồ các tôn giáo: Đến năm 2007, tổng tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam có hơn 20 triệu, của 6 tôn giáo lớn. Trong đó: Phật giáo gần 10 triệu; Công giáo 5,9 triệu; Tin Lành gần 1 triệu; Hồi giáo 67 nghìn; Cao Đài 3,2 triệu Trong những năm qua, nhờ đổi mới về nhận thức và thực hiện đúng đắn chính sách tôn giáo mà năng lực, sức sáng tạo của hàng chục triệu đồng bào có đạo đã được phát huy.

Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn xác định công tác tôn giáo, dân tộc là vấn đề chiến lược, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc là chính sách nhất quán xuyên suốt của Đảng

Đại hội XI, vấn đề tôn giáo được đề cập ở hai văn kiện quan trọng, đó là: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển 2011).
Cương lĩnh ghi: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”


II NỘI DUNG CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG TA HIỆN NAY:
1Quan điểm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, của ĐCS VN và Chính Sách của Nhà Nước:
1.1Quan điểm của CT HCM:
Vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo trong điều kiện cụ thể của VN, CT HCM đã nêu nhiều quan điểm thể hiện thái độ, cách giải quyết vấn đề tôn giáo ở VN.
Phải có quan niện đúng về tôn giáo . CT HCM đã coi tôn giáo như là một thành tố của văn hóa. Người viết “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn , ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”
Một số quan điểm của CT HCM về tôn giáo:
+ Giải quyết vấn đề tôn giáo phải nhằm tăng cường đoàn kết lương, giáo, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.( SGK _ 126).
+ Phải thực sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. ( SGK – 127).
+ Phải coi trọng việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào, lấy công tác vận động quần chúng làm trọng tâm.
1.2 Quan điểm của Đảng và NN ta:
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng công sản VN đã chỉ rõ:
+ Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan tọng của khối đại đoàn kết dân tộc.
+ Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật.
+ Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo.
+ Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo.
+ Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống” tốt đời, đẹp đạo “.
+ Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ.
+ thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của đồng bào các tôn giáo.
+ Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo.
+ Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước, vi phạp quyền tự do tôn giáo của công dân. ( SGK – 130 )
1.2 Nghị quyết lần thứ bảy BCH TW Khóa IX đã xác định nhiệm vụ;
+ Thực hiện có hiệu quả chủ trương , chính sách và các chương trình phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, trong đó có đồng bào của các tôn giáo .
+ Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng chính sách và pháp luật của nhà nước.
+ Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt đời đẹp đạo” trong quần chúng tín đồ, chức sắc , nhà tu hành cơ sở. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước.
+Phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và phối hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để phá hoại đoàn kết dân tộc, chống đối chế độ.
+ Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà Nước. Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà Nước; đấu tranh làm thất bại những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch bên ngoài đối với tình hính tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta.
+ Tổng kết và thực hiện các chỉ thị , nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo. Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách trước mắt và lâu dài đối với tôn giáo.
Trong điều kiện hiện nay, cần phải tiếp tục thực hiện đồng bộ bốn nhóm giải pháp đối với công tác tôn giáo:
 + Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo.
+ Tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị cơ sở.
+ Tăng cường quản lý Nhà nước về vấn đề tôn giáo.
+ Tăng cường công tác tổ chức cán, bộ làm công tác tôn giáo.
____________

Câu 10. Nhân tố con người là gì? Hãy làm rõ vai trò nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay ?

 I NHÂN TỐ CON NGƯỜI
1 Khái niệm về con người:
Từ xưa đến nay có rất nhiều quan niệm, trào lưu tư tưởng, triết học khác nhau về con người và bản chất con người nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác – Lenin mới đưa ra quan niệm đúng đắn và khoa học.: “ Con người là một thực thể tự nhiên, một cấu trúc sinh học, đồng thời là một thực thể xã hội, mang bản chất xã hội.”
Quan điểm về con người của chủ nghĩa Mác – Lenin được thể hiện:
+ Hai mặt cơ bản nhất của con người là mặt tự nhiên và mặt xã hội. Hai mặt đó thống nhất biện chứng và tác động qua lại lẫn nhau. Chịu sự tác động của các mặt xã hội, mặt tự nhiên của con người được nâng lên làm cho con người khác hẳn động vật. Chính vì vậy mà Các Mác quan niệm : con người là một thực thể tự nhiên đặc biệt, một thực thể tự nhiên đã được nhân loại hóa.
+ Bản chất tự nhiên của con người là gắn bó với đồng loại không thể tách rời, đồng thời là những cá nhân với ý nghĩa đầy đủ.
+ Trong xã hội có giai cấp, con ngưới bao giờ cũng mang tính giai cấp và mang dấu ấn thời đại. Ben cạnh tính chất cơ bản đó , con ngưới còn có tính chất dân tộc và tính nhân loại. Song với bản chất vốn có của mình, con người luôn hướng tới những giá trị tốt đẹp của nhân loại
Trên tất cả các ý nghĩa đó C Mác đã khái quát : “ Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”.
Chỉ có CM XHCN mới có đủ điều kiện để hướng con người phát triển và nhân lên giá trị, bản chất tốt đẹp của mình.
2 Khái niệm nhân tố con người:
Là bản thân con người được xem xét về vai trò và tác động của nó đối với  tiến trình phát triển của lịch sử.
Nhân tố con người bao hàm những mặt sau :
+ Là một nhân tố xã hội để phân biệt nó với các nhân tố khác trong đời sống xã hội ( như nhân tố kinh tế, kỹ thuật , tài nguyên….) được huy động vào hóa trình hoạt động thực tiễn để đem lại sự phát triển và tiến bộ xã hội.
+ Là những tiêu chí về số lượng và chất lượng của dân số và lao động. Nó nói lên khả năng của con người, của một cộng đồng người trong một hoàn cảnh xã hội - lịch sử nhất định cần phải được khai thác và phát huy trong quá trình cải tạo và xây dựng xã hội, mà trước hết và chủ yếu là số lượng và chất lượng lao động của con người.
+ NTCN bao gồm một chỉnh thể các giai cấp, các tầng lớp xả hội, các dân tộc, các tôn giáo, các giới, các lứa tuổi…khác nhau, nhưng liên kết chặt chẽ với nhau nhằm  tạo ra sức mạnh tổng hợp của cộng đồng để thúc đẩy tiến bộ xã hội.
+ NTCN là những tiêu chí về nhân cách, bao gồm toàn bộ những yếu tố như phẩm chất, năng lực, đạo đức, tư tưởng, tính cảm, chức năng xã hội của con người….có thể khai thác, phát huy  trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội. Trong cấu trúc nhân cách, đạo đức và năng lực là hai thành phần cốt yếu để tạo nên nhân cách của con người. Trong đó, đạo đức được xem là cái gốc có giá  trị định hướng cho hoạt động của con người hướng tới những giá trị nhân đạo, tiến bộ và phát triển bền vững. Còn năng lực, đặt biệt là năng lực sáng tạo là điều kiện và khả năng hiện thực để con người vươn lên chinh phục những đỉnh cao mới thúc đẩy xã hội phát triển.
Tóm lại: NTCN là một phạm trù triết học xã hội dùng để nhấn mạnh mặt hoạt đông của con người với tư cách là chủ thể của toàn bộ tiến trình lịch sử; đồng thời, bao gồm cả những phẩm chất, nhân cách, tìm năng và năng lực sáng tạo của con người được huy động vào quá trình cải tạo tư nhiên, cải tạo xã hội vì lợi ích của xã hội, nhân loại và của chính bản than con người.
II VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
+ Vai trò của nhân tố con người quyết định đối với sự phát triển của lịch sử xã hội, chủ nghĩa Mac – Lenin đã khẳng định : “ con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, vừa là chủ thể tích cực cải biến tự nhiên và xã hội. Con người là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; quần chúng nhân nhân là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử, của xã hội.
Theo quy luật của tự nhiên, con người trước hết là một sinh vật, do đó nó phải lệ thuộc vào tự nhiên một cách tương đối và phải có những hoạt động để thích nghi với giới tự nhiên. Song con người không chỉ biết lợi dụng giới tự nhiên, mà còn tìm cách chinh phục, cải tạo tự nhiên và sáng tạo ra một tư nhiên thứ hai như là tác phẩm nghệ thuật của chính mình. Điều đó được thực hiện không chỉ bằng bàn tay và sức lực, mà chủ yếu bằng trí tuệ sáng tạo của con người.
+ CT HCM đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân tố con người và khẳng định sự cần thiết phải chăm lo bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người trong tiến trình cách mạng, xem đó là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự thắng lợi của cách mạng VN. Người nói “ Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”; “ Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”
Con người XHCN theo quan điểm CTHCM là những người có ý thức, có trình độ và năng lực làm chủ; có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có kiến thức KH _ KT ; có tinh thần sáng tạo và thường xuyên có ý thức nâng cao trình độ tri thức về mọi mặt, ra sức rèn luyện sức khỏe, đảm bảo phát triển toàn diện cá nhân; đó là con người lao động có ý thức tổ chức kỷ luật cao, biết đánh giá chất lượng lao động vả hiệu quả lao động của bản than; là những con người giàu long yêu nước, thương dân có tình thương yêu giai cấp, thương yêu đồng loại sống nhân văn, nhân đạo; có ý thức kiên cường đấu tranh bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, chống lại những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch. Tóm lại đó là những con người vừa có đức vừa có tài, vừa hồng vừa chuyên.
+ Nhân tố con người là chủ thể khơi dậy tác dụng của các nhân tố khác. Hơn nữa, vời tiềm năng sáng tạo của mình nếu được phát huy đúng đắn, nhân tố con người có thể tạo ra những nguyên liệu mới, những năng lượng mới không co sẳn trong tự nhiên để bù đắp những thiếu hụt của tư nhiên, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
VD:
Hiện nay, trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ thì tri thức là yếu tố nền tảng , quan trọng để tạo ra sự phát triển nhanh chóng . Nhưng tri thức lại do con người sáng tạo ra không ngừng. Do vậy, đầu tư và phát huy nhân tố con người trở thành yếu tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của mỗi quốc gia trong cuộc đua phát triển.
____________

Câu 11. Trình bày thực trạng và phương hướng, giải pháp phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay ?

I THỰC TRẠNG PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI VN
1 Những kết quả đạt được :
Theo kết quả điều tra dân số đến tháng 12/2010, Việt Nam có gần 87 triệu người. Điều này phản ánh nguồn nhân lực của Việt Nam đang phát triển dồi dào. Nguồn nhân lực Việt Nam được cấu thành chủ yếu là nông dân, công nhân, trí thức, doanh nhân, dịch vụ và nhân lực của các ngành, nghề. Trong đó, nguồn nhân lực nông dân có gần 62 triệu người, chiếm hơn 70% dân số; nguồn nhân lực công nhân là 9,5 triệu người (gần 10% dân số); nguồn nhân lực trí thức, tốt nghiệp từ đại học, cao đẳng trở lên là hơn 2,5 triệu người, chiếm khoảng 2,15% dân số; nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp khoảng 2 triệu người, trong đó, khối doanh nghiệp trung ương gần 1 triệu người…. Sự xuất hiện của giới doanh nghiệp trẻ được xem như một nhân tố mới trong nguồn nhân lực, nếu biết khai thác, bồi dưỡng, sử dụng tốt sẽ giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. 

Đảng và Nhà nước ta xác định việc đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài, giáo dục đào tạo, khoa học kỹ thuật là quốc sách hàng đầu.
Do thể lực và trình độ học vấn của người Vn được nâng lên, nên tính chủ động, tính tích cực xã hội, tính sáng tạo của người VN đã được phát huy có hiệu quả hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2 Những hạn chế trong việc phát huy nhân tố con người Vn:
+ Trong một thời gian dài chúng ta chúng ta đã tuyệt đối hóa mặt xã hội của con người, dẫn đến xem nhẹ mặt tự nhiên, không quan tâm thỏa đáng đến những nhu cầu, lợi ích vật chất và tinh thần chính đáng của con người.
+ Có lúc chúng ta đã đề quá cao tính giai cấp, không chú ý kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của con người Vn và xem nhẹ tính nhân loại nên đã làm cho nhân cách con người không phát triển một cách toàn diện, vì thế nhân tố con người chưa phát huy có hiệu quả.
+Tình trạng quan lieu trong bộ máy nhà nước chưa khắc phục được; một bộ phận cán bộ đảng viên thoái hóa, biến chất, cùng với những tiêu cực nẩy sinh và phát triển chưa ngăn chặn và giải quyết kịp thời…Đã làm cho long tin của nhân dân đối với Đảng với chế độ bị suy giảm..
+ Trình độ chuyên môn kỷ thuật thấp, lao động qua đào tạo nghề của nguồn nhân lực nước ta còn thiếu về số lượng ( lao động qua đào tạo mới đạt 25 %) , hạn chế về chất lượng bất hợp lý về cơ cấu và nhìn chung chưa đáp ứng nhu cầu của thị trường.
+ Do lịch sử để lại, con người Vn chi5i ảnh hưởng khá nặng tâm lý, thói quen của người sản xuất nhỏ tiểu nông. Chủ nghĩa bình quân còn chi phối khá nặng trong xã hội. Tính tổ chức , kỷ luật lao động công nghiệp còn nhiều hạn chế. Trong cơ chế thị trường và hợp tác  quốc tế, nhiều thói hư tật xấu phát triển, tệ nạn xã hội gia tăng…
+ Đầu tư cho giáo dục – đào tạo còn thấp” chất lượng giáo dục còn yếu kém… Chương trình , phương pháp dạy và học còn lạc hậu, nặng nề chưa phù hợp” Tình trạng tiêu cực trong giáo dục còn phổ biến ở nhiều nơi, chất lượng giáo viên còn hạn chế.
II PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI Ở VN
1 Phương hướng cơ bản:
Đảng ta luôn nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề con người và việc phát huy nhân tố con người trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, coi đó vừa là yêu cầu của sự nghiệp cách mạng vừa là yêu cầu của chính sự nghiệp hoàn thiện bản thân con người, xay dựng con người mới XHCN.
Phương hướng cơ bản để phát huy nhân tố con người trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội  ở nước ta đã được Đảng ta đề cập trong các nghị quyết của Đại hội Đảng và nhiều nghị quyết của BCH TW; thể hiện sâu sắc và cụ thể trong chủ trương, chính sách của nhà nước:
Thứ nhất: “ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế trí thức”.
Đặc trưng của cnh, hđh là sử dụng một cách phổ biến nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỷ thuật cao dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ nhằm  tạo ra năng xuất lao động xã hội cao.
Để đạt được mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại ( Đại Hội X) chúng ta phải gắn cnh, hđh với phát triển kinh tế tri thức nhằm gút ngắn quá trình cng, hđh tạo ra cơ sở vật chất kỷ thuật cần thiết cho cnxh.
Đẩy mạnh cnh, hđh và từng bước vững chắc chuyển sang nền kinh tế tri thức là căn cứ khoa học và phù hợp với xu thế chung của thới đại. Điều nầy chỉ thành công khi có chính sách đúng về phát triển nguồn nhân lực và phát huy có hiệu quả nhân tố con người Vn.
Tóm lại: ngh, hđh vừa là điều kiện vật chất cần thiết và quan trọng để phát triển đất nước, nâng cao chất lượng đời sống con người, để bồi dưỡng phát huy nhân tố con người, đồng thới vừa đặc ra yêu cầu khách quan phải phát huy nhân tố con người- yếu tố quyết định đến thắng lợi cnh, hdh đất nước.
Thứ hai, xây dựng và từng bước hoàn chỉnh một hệ thống chính sách xã hội phù hợp.
 Chính sách xã hội là một bộ phận hợp thành hệ thống chính sách của Đảng và Nn ta, là sự thể hiện lý tưởng chính trị, cương lĩnh, đường lối cm của đảngcộng sản, trong hệ thống pháp luật của nhà nước xhcn và thể hiện bằng quá trình tổ chức thực hiện trong cuộc sống. Chính sách xã hội thể hiện trên tất cả các lĩnh vực và thể hiện rỏ nhất bản chất của một chế độ xã hội.
Chính sách xã hội phải hướng tới con người và vì con người, qua đó chăm lo và tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi người được học tập, rèn luyện phấn đấu vươn lên và cống hiến hết mình vì sự phát triển của đất nước. Để thực hiện được điều đó phải bảo đảm: “ tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt hóa trình phát triển”
Thứ ba, từng bước xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý của chế độ xhcn.
Cơ chế quản lý của một xã hội là toàn bộ những thiết chế, những quy định về mối quan hệ trách nhiệm, quyền hạn giữa cá nhâ với tổ chức, giữa tổ chức với tổ chức nhằm thực hiện mục đích quản lý xã hội theo một định hướng nhất định của giai cấp cầm quyền.
Chế độ xhcn là chế độ quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, nhân dân làm chủ trên mọi lĩnh vực. Do vậy, xã hội phải tạo ra những điều kiện thuận lợi đề người lao động có thể tham gia tích cực vào công việc quản lý xã hội, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, qua đó nhân tố con ngưới mới phát huy một cách hiệu quả vào các qu1 trình phát triển.
Thứ tư : thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.
 Cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa có nhiệm vụ trang bị lý luận chủ nghĩa Mac – lenin, tư tưởng HCM cho quần chúng nhân dân lao động. Do vậy thực hiện cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa chính là nhằm bồi dưỡng, phát triển và phát huy tốt hơn nhân tố con người VN trong quá trình xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc xhcn.
2Những giải pháp phát huy nhân tố con người VN
2.1Trên lĩnh vực kinh tế
Xác lập địa vị làm chủ của người lao động trong quá trình lao động sản xuất thông qua việc tạo điều kiện cho họ làm chủ những tư liệu sản xuất của toàn xã hội, ở mọi thành phần kinh tế. Phát huy sáng kiến của người lao động trong quá trình lao động sản xuất thông qua việc tạo điều kiện cho họ làm chủ những tư liệu sản xuất của toàn xã hội, ở mọi thành phần kinh tế. Phát huy sáng kiến của người lao động trong quá trình lao động sản xuất, phát triển kinh tế nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu ăn, ở, học hành, chữa bệnh, đi lại…của người lao động; thực hiện phân phối công bằng, công khai và dân chủ.
Khai thác mọi tiềm năng thế mạnh của mỗi cá  nhân, mỗi tập thể, mỗi địa phương trong quá trình sản xuất kinh doanh; phát triển ngành nghề truyền thống, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
____________

Câu 12 : Trình bày vai trò, chức năng của gia đình trong CNXH và xác định phương hướng, giải pháp xây dựng gia đình mới ở nước ta hiện nay?
I. Vị trí, chức năng của Gia đình trong xã hội:
1. Quan niệm về gia đình:
a) Định nghĩa gia đình:
Với tư cách một hình thức cộng đồng tổ chức đời sống xã hội, gia đình được hình thành từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Xuất phát nhu cầu bảo tồn và duy trì nòi giống, từ sự cần thiết phải nương tựa vào nhau để sinh tồn, các hình thức quần tụ giữa nam giới và nữ giới, những hình thức cộng đồng tổ chức đời sống gia đình đã xuất hiện. Lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều hình thức gia đình: gia đình đối ngẫu, gia đình một vợ một chồng...
2. Vị trí gia đình trong xã hội:
a) Gia đình là tế bào của xã hội:
Có thể ví xã hội là một cơ thể sống hoàn chỉnh và không ngừng biến đổi được "sắp xếp, tổ chức" theo nhiều mối quan hệ trong đó gia đình được xem là một tế bào, một thiết chế cơ sở đầu tiên. Mỗi một chế độ xã hội được sinh thành, vận động và biến đổi trên cơ sở một phương thức sản xuất xác định và có vai trò quy định đối với gia đình. Nhưng xã hội ấy lại tồn tại thông qua các hình thức kết cấu và quy mô gia đình. Mỗi gia đình hạnh phúc, hoà thuận thì cả cộng đồng và xã hội tồn tại và vận động một cách êm thấm. Mục đích chung của sự vận động biến đổi của xã hội trước hết vì lợi ích của mỗi công dân, mỗi thành viên xã hội và mỗi gia đình - tổ chức và thiết chế xã hội đầu tiên, cơ sở nơi quần tụ của mỗi công dân và thành viên của xã hội. Nhưng lợi ích của mỗi công dân, mỗi thành viên xã hội lại chịu sự chi phối của lợi ích các tập đoàn giai cấp thống trị trong xã hội, trong điều kiện xã hội phân chia thành giai cấp.
b) Trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định quy mô, kết cấu, hình thức tổ chức và tính chất của gia đình:
Quan điểm duy vật về lịch sử đã chỉ ra rằng, gia đình là những hình thức phản ánh đặc thù của trình độ sản xuất, của trình độ phát triển kinh tế.
Trong tiến trình lịch sử nhân loại, các phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa đã lần lượt thay thế nhau, kéo theo và dẫn đến sự biến đổi về hình thức tổ chức, quy mô và kết cấu cũng như tính chất của gia đình. Từ gia đình tập thể - quần hôn với các hình thức huyết thống, đối ngẫu, gia đình cặp đôi bước sang hình thức gia đình cá thể, một vợ một chồng; từ gia đình một vợ, một chồng bất bình đẳng, chỉ về phía người phụ nữ, người vợ sang gia đình một vợ, một chồng ngày càng bình đẳng giữa nam - nữ, giữa các thành viên trong gia đình. Tất cả những bước tiến đó của gia đình phụ thuộc chủ yếu và trước hết vào những bước tiến trong sản xuất, trong trình độ phát triển kinh tế của mỗi thời đại.
c) Gia đình là một thiết chế cơ sở, đặc thù của xã hội, là cầu nối giữa cá nhân với xã hội:
Trong hệ thống cơ cấu tổ chức của xã hội, gia đình được coi là thiết chế cơ sở, đầu tiên, nhỏ nhất. Sự vận động biến đổi của thiết chế tuân theo những quy luật chung của cả hệ thống. Nhưng thiết chế ấy vận động biến đổi còn trên cơ sở kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống của mỗi nền văn hoá, mỗi vùng và địa phương khác nhau và còn được bộc lộ, thể hiện ở mỗi thành viên và thế hệ thành viên trong sự "giao thoa" của mỗi cá nhân và mỗi gia đình. Thông qua các hoạt động tổ chức đời sống trong gia đình và của gia đình, mỗi cá nhân, mỗi gia đình tiếp nhận, chịu sự tác động và "phản ứng " lại đối với những tác động của xã hội, thông qua các tổ chức, các thiết chế, chính sách... của XH. Sự đồng thuận hay không đồng thuận của những tác động từ xã hội, nhà nước với những hình thức tổ chức, sinh hoạt trong thiết chế gia đình sẽ tạo ra kết quả tốt hay xấu của mỗi chế độ xã hội, mỗi thời đại.
d) Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hoà trong đời sống cá nhân của mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội:
Từ thuở lọt lòng cho đến suốt cuộc đời, mỗi thành viên được nuôi dưỡng, chăm sóc để trở thành công dân của xã hội, lao động cống hiến và hưởng thụ, đóng góp cho xã hội trước hết và chủ yếu là thông qua gia đình và với gia đình. Sự yên ổn, hạnh phúc mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách, bảo đảm đạt hiệu quả cho các hoạt động lao động của xã hội. Rõ ràng là, muốn xây dựng xã hội phải chú ý xây dựng gia đình. Xây dựng gia đình là trách nhiệm, là một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của chính xã hội.
3. Các chức năng cơ bản của gia đình:
a) Chức năng tái sản xuất ra con người:
Tái sản xuất ra chính bản thân con người là một chức năng cơ bản và riêng có của gia đình. Chức năng này bao gồm các nội dung cơ bản: tái sản xuất, duy trì nòi giống, nuôi dưỡng nâng cao thể lực, trí lực bảo đảm tái sản xuất nguồn lao động và sức lao động cho xã hội.
b) Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình:
Hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống vật chất là một chức năng cơ bản của gia đình. Hoạt động kinh tế, hiểu theo nghĩa đầy đủ gồm có hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tiêu dùng để thoả mãn các yêu cầu ăn mặc, ở, đi lại của mỗi thành viên và của gia đình.
Thực hiện tốt chức năng kinh tế sẽ tạo ra tiền đề và cơ sở vật chất vững chắc cho tổ chức đời sống của gia đình. Đương nhiên, ngoài cơ sở kinh tế, thì còn nhiều yếu tố khác mới đảm bảo cho một gia đình trở nên văn minh, hạnh phúc.
c) Chức năng giáo dục của gia đình:
Nội dung của giáo dục gia đình tương đối toàn diện, cả giáo dục tri thức và kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm mỹ, ý thức cộng đồng. Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng, song chủ yếu là phương pháp nêu gương, thuyết phục, chịu ảnh hưởng không ít của tư tưởng, lối sống, tâm lý, gia phong của gia đình truyền thống. Dù giáo dục xã hội đóng vai trò ngày càng quan trọng, có ý nghĩa quyết định, nhưng có những nội dung và phương pháp giáo dục gia đình mang lại hiệu quả lớn không thể thay thế. Giáo dục gia đình còn bao hàm cả tự giáo dục. Do đó, chủ thể giáo dục gia đình cơ bản và chủ yếu vẫn là thế hệ cha mẹ, ông bà đối với con cháu.
d) Chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm-sinh lý, tình cảm của gia đình:
Nếu như trình độ sản xuất kinh doanh, hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống gia đình là điều kiện và tiền đề vật chất của xây dựng gia đình, thì thoả mãn các nhu cầu tâm sinh lý được coi là một chức năng có tính VH-XH của gia đình. Chức năng này có vị trí đặc biệt quan trọng, cùng với các chức năng khác tạo ra khả năng thực tế cho xây dựng gia đình hạnh phúc.
Gia đình, thông qua thực hiện các chức năng khách quan vốn có của mình, có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội, nhưng chỉ với tư cách là của cái bộ phận đối với cái toàn thể. Mọi quan điểm tuyệt đối hoá, đề cao quá mức hay phủ nhận, hạ thấp vai trò của gia đình đều là sai lầm.

4. Một số nội dung chủ yếu của xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay:
a) Nội dung cơ bản, trực tiếp của xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay là xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Đây chính là mục tiêu, là chuẩn mực cơ bản mà chúng ta cần xây dựng, là đích hướng tới hiện nay của mỗi gia đình ở nước ta. No ấm, được hiểu là sự thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần cơ bản phù hợp với khả năng lao động cống hiến của mỗi gia đình, mỗi thành viên gia đình, là kết quả của sự lao động cần cù, sáng tạo, chính đáng của gia đình và thành viên gia đình. Trong gia đình, cần chú trọng xây dựng quan hệ dân chủ, bình đẳng giữa các thành viên, nhất là dân chủ, bình đẳng giữa nam - nữ, giữa cha, mẹ - con cái, tạo nên sự nề nếp, hoà thuận, kỷ cương mới trong gia đình. Sự tiến bộ của gia đình về mọi mặt dựa trên sự tiến bộ của mỗi thành viên và gắn liền với sự phát triển về mọi mặt của xã hội. Gia đình hạnh phúc không chỉ là no ấm, dân chủ, bình đẳng, tiến bộ, mà còn là tổng thể những nét đẹp trong đời sống văn hoá tinh thần mỗi gia đình, trong quan hệ cộng đồng, quan hệ xã hội, quan hệ giữa các thành viên trong từng gia đình.
b) Một trong những nội dung cơ bản và là đặc thù của xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là ngay từ đầu cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với giải quyết và thực hiện công bằng xã hội trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế phải hướng tới phát triển và giải quyết tốt các vấn đề xã hội, trong đó có xây dựng gia đình mới, no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Ngược lại, xây dựng gia đình mới, cần phải gắn bó, trở thành một bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Liên quan đến vấn đề này, hiện nay chúng ta một mặt phải rà soát lại các chiến lược kế hoạch phát triển kinh tế gắn với giải quyết các nhu cầu phát triển xã hội, trong đó có xây dựng và phát triển mọi gia đình, mặt khác cần đưa ra các đề nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các chính sách xã hội có liên quan đến vấn đề xây dựng gia đình: việc làm, xoá đói giảm nghèo, phúc lợi xã hội, y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, dân số và kế hoạch hoá gia đình...

 

5 nhận xét: